Ngày 15-4-1865, nước ta mới có tờ báo đầu tiên xuất bản bằng tiếng Việt-tờ Gia Định Báo, muộn hơn nhiều so với thế giới. Cho đến trước năm 1954, có khoảng hơn 50 tờ, chủ yếu xuất bản tại các đô thị lớn như: Sài Gòn, Hà Nội, Huế, Đà Nẵng và vùng kháng chiến. Còn về lực lượng làm báo, trước năm 1945, cả nước chưa có cơ sở đào tạo nào. Năm 1949, theo chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng bộ Việt Minh, để đáp ứng nhu cầu tuyên truyền báo chí trong giai đoạn kháng chiến, lớp dạy làm báo mang tên Huỳnh Thúc Kháng đã ra đời tại núi rừng ATK ở Việt Bắc. Mãi đến năm 1962, cơ sở đầu tiên đào tạo báo chí chính quy ở Việt Nam mới ra đời: Trường Tuyên giáo Trung ương (nay là Học viện Báo chí và Tuyên truyền).

Đặt trong bối cảnh ấy để chúng ta nhìn lại 33 số báo Quân đội nhân dân (QĐND) thực hiện ngay tại Mặt trận Điện Biên Phủ (song song với tờ báo ở hậu phương) trong thời gian từ ngày 28-12-1953 đến 16-5-1954, đến khi Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, được ví như mặt trận trong mặt trận, còn gọi là "Mặt trận 33". Chỉ với 5 cán bộ làm báo, đảm đương tất cả công việc: Từ đi sát các đơn vị chiến đấu, các cánh quân để viết bài, phản ánh kịp thời mọi mặt hoạt động của cán bộ, chiến sĩ ta, vừa biên tập, vẽ tranh, vừa trình bày cho đến đưa báo ra mặt trận kịp thời, qua đó mới thấy hết sự vĩ đại, phi thường của những người làm báo QĐND khi đó.

Báo QĐND xuất bản số đầu tiên ngày 20-10-1950, trên cơ sở sáp nhập các tờ Vệ quốc quân và Quân du kích, tức là khi các nhà báo có mặt ở Điện Biên Phủ, tờ báo QĐND mới hơn 3 tuổi. Tuy vậy, "Mặt trận 33" đã đi trước thời đại về chuyên môn, tính chuyên nghiệp và hiện đại của báo chí, thể hiện rõ sự vượt trội so với các ấn phẩm báo chí đương thời ở rất nhiều dấu ấn, khía cạnh, cụ thể:

Một là, các chức năng thông tin, giao tiếp; chức năng tư tưởng, chức năng văn hóa, giải trí; chức năng quản lý, giám sát và phản biện xã hội đều được thể hiện rõ nét trên các số báo. Ở đây cần nhấn mạnh, chức năng quản lý, giám sát và phản biện xã hội sau này chỉ được đề cập trên bình diện lý luận sớm nhất ở nước ta trong cuốn “Truyền thông đại chúng” của nhà nghiên cứu Tạ Ngọc Tấn. Trước đó, trong cuốn “Giáo trình nghiệp vụ báo chí” xuất bản năm 1978 mới chỉ nhắc đến 3 chức năng cơ bản của báo chí cách mạng: Chức năng tuyên truyền, chức năng cổ động, chức năng tổ chức.

Hai là, các chuyên mục vô cùng phong phú. Tuy báo chỉ có 2 trang (ngoại trừ 2 số ra 4 trang, 1 số ra 6 trang) nhưng có tới hơn 10 chuyên mục: Thi đua mở đường thắng lợi, Gương chiến đấu anh dũng, Sinh hoạt ngoài trận địa, Ý kiến bạn đọc, Sổ tay kinh nghiệm, Chuyện Điện Biên Phủ, Bộ đội với cải cách ruộng đất, Bộ đội với phát động quần chúng, Chiến thắng khắp nơi, Đồng chí có biết, Nhật ký đào trận địa, Nhật ký chiến đấu. Chưa kể mục Hộp thư (hoạt động thông tin viên) đăng ở 13 số; Thông báo khen thưởng, Thông báo kỷ luật đăng ở nhiều số.

Riêng chuyên mục "Gương chiến đấu anh dũng" vô cùng phong phú với 19 bài, viết cả về gương tập thể và gương cá nhân. Số 119 và 120, mỗi số có 3 gương.

leftcenterrightdel

Phóng viên Báo QĐND (thứ ba, từ phải sang) và cán bộ, dân quân địa phương thăm Bia di tích điểm đặt Tòa soạn tiền phương và nhà in Báo QĐND tại Mặt trận Điện Biên Phủ. Ảnh: TRẦN ANH

Ba là, thể loại rất đa dạng, thể hiện linh hoạt. Ngôn ngữ trong sáng, dễ hiểu, câu văn súc tích, ngắn gọn, không sai văn phạm và lỗi chính tả, không lẫn các từ nước ngoài trong tin, bài như tình trạng báo chí hiện nay. Cụ thể, trừ thể loại điều tra và phỏng vấn, các thể loại còn lại của báo chí đều xuất hiện: Xã luận (12 bài), bình luận, nghị luận, phóng sự, tường thuật, ghi chép, ghi nhanh, nhật ký, bút ký, bài báo, tin.

Riêng tin có đủ các hình thức tin sâu, tin tường thuật, tin thường, tin tổng hợp, tin tòa án, tin vắn không tít, tin ngắn có tít, tin công báo; tranh cổ động (5 bức), tranh đả kích, tranh vui phê bình (6 bức), thơ châm biếm, nhiều minh họa. Tin vắn lại có “Tin vắn hậu phương”, “Tin chiến sự”, “Tin sau cùng”, rất đa dạng và cuốn hút.

Bốn là, tính hiện đại. Nhiều bài viết trên 33 số báo QĐND xuất bản ở Mặt trận Điện Biên Phủ đã có sa pô, tít phân đoạn, điều mà báo chí nước ta chỉ phát triển từ đầu những năm 90 của thế kỷ 20 trở lại đây. Nhiều bài, tin phản ánh chiến thắng có kèm bản đồ.

Chẳng hạn, số báo 116, ra ngày 28-12-1953, tin tường thuật “Diễn biến cuộc rút lui Lai Châu về Điện Biên của địch và cuộc truy kích của quân ta” có sa pô bằng chữ cỡ to hơn chữ thường, in hoa ở dưới: “Sau 12 ngày chiến đấu, từ 8 đến 19-12, ta đã phá kế hoạch rút lui của địch, tiêu diệt và đánh tan 24 đại đội địch, tổng cộng trên 2.500 tên, giải phóng một vùng đồng bằng rộng 8.000 cây số vuông, dân số trên 2 vạn người”. Trong tin này có 2 tít nhỏ: “Kế hoạch rút lui của địch” và “Cuộc tiến quân của ta”.

Năm là, tính thời sự cao, nội dung thông tin phong phú, kịp thời, thiết thực. Các tin, bài hầu hết đều được viết tại mặt trận và đăng ngay sau đó, có tin viết khi trận đánh vừa kết thúc, điều chỉ có ở báo điện tử ngày nay. Ví dụ: Bước vào giai đoạn quyết liệt của chiến dịch, báo đưa tin chỉ đạo “Giữ gìn vũ khí sẵn sàng tiêu diệt địch” (ngày 9-3). Tiếp theo, ngày 10-3-1954, báo đăng lời kêu gọi toàn thể cán bộ, chiến sĩ, các đơn vị, các binh chủng của Đại tướng, Tổng Tư lệnh: "Kiên quyết tiêu diệt toàn bộ quân địch tại Điện Biên Phủ", đăng quyết định của Bộ Tổng Tư lệnh "5 điều kỷ luật chiến trường thi hành trong Chiến dịch Điện Biên Phủ". Từ ngày 14-3-1954, các tin tức dồn dập hơn. Đầu trang nhất là tin lớn đưa cả 5 cột "Quân ta đã tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Him Lam", cùng với đó là thư khen của Hồ Chủ tịch và Đại tướng, Tổng Tư lệnh gửi cán bộ, chiến sĩ ở mặt trận.

Ngày 15-3-1954, báo lại có tin lớn ở trang nhất cùng bản đồ: "Chiến thắng lớn thứ 2 tại Mặt trận Điện Biên Phủ: Quân ta lại tiêu diệt hoàn toàn tiểu đoàn Bắc Phi ở đồi Độc Lập". Cùng đầu trang đăng toàn văn thư của Đại tướng, Tổng Tư lệnh khen các đơn vị chiến thắng trên Mặt trận Điện Biên Phủ. Thú vị hơn, ở góc trang nhất số báo này có "Tin cuối cùng" vỏn vẹn 16 từ được in đậm: "Ngày 15-3-54, quân ta lại bắn cháy và rơi 12 máy bay ở Điện Biên Phủ"...

Sáu là, tính chiến đấu cao. Không chỉ cùng bộ đội chiến đấu trực diện với giặc trên mặt trận tư tưởng mà trên báo còn thể hiện qua các bài viết đấu tranh chống lại các tư tưởng, quan điểm sai trái, các hiện tượng tiêu cực cũng như phê bình và tự phê bình nghiêm túc những sai lầm trong nội bộ cán bộ, chiến sĩ. Ví dụ, số 124 ra ngày 22-2-1954 có bài “Quanh việc giữ gìn vũ khí” của Tương; số 139 ra ngày 4-4 có bài “Vì sao hơn 200 khẩu súng ở đơn vị Đ.H. bị hoen rỉ?” của Hùng Tráng; số 125 ra ngày 24-2 có bài: “Vì sao Đại đội X có nhiều anh em ốm?” của T.B.T.L., phê bình việc một số đơn vị bảo quản vũ khí không tốt, không tự giác phòng bệnh và giữ sức khỏe. Ngày 9-3, báo có bài "Mấy khuyết điểm trong việc lãnh đạo tư tưởng" của Phác Văn.

Báo đăng cả những tin kỷ luật cán bộ, chiến sĩ với những sai phạm nghiêm trọng. Số 143, báo đưa tin cả 5 cột đầu trang với tít cỡ to: Toàn thể nhân viên quân y trong trạm tải thương đã bị truy tố trước tòa án binh mặt trận. Tòa án binh nghiêm khắc xử phạt: Tước quân tịch phạt tù 2 cán bộ tiểu đoàn và đại đội ... vì không chấp hành năm điều kỷ luật chiến trường, không triệt để thi hành mệnh lệnh của thượng cấp và vì thiếu tinh thần phụ trách trước binh sĩ, vi phạm chính sách thương binh.      

Bảy là, tính chuyên nghiệp cao. Điều này thể hiện ở sự nghiêm túc. Báo viết sai liền có "Đính chính" ngay số sau, không né tránh. Cụ thể ở số 117, số 226.  

Tám là, có thể coi đây là hình thức "phụ bản" đầu tiên của báo chí cách mạng Việt Nam, điều mà chỉ xuất hiện từ những năm 90 của thế kỷ 20 cho đến năm 2010-thời gian báo in còn thịnh hành...

Đã hơn 70 năm trôi qua nhưng những đóng góp của "Mặt trận 33" - 33 số báo QĐND xuất bản tại Mặt trận Điện Biên Phủ-với giá trị như là di sản văn hóa, lịch sử, di sản báo chí to lớn sẽ để lại nhiều bài học quý báu cho những người làm báo hôm nay và mai sau cả về tinh thần, thái độ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân và sáng tạo, giữ gìn tôn nghiêm, đạo đức trong nghề.  

TS NGUYỄN QUANG HÒA