Ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, với Sắc lệnh 13 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành ngày 24-1-1946 về tạm thời tổ chức hệ thống tòa án nhân dân (TAND), nước Việt Nam đã bắt đầu thiết lập một hệ thống tư pháp cách mạng, đồng hành với nhà nước dân chủ non trẻ. Ngay trong Hiến pháp năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta đã quy định rõ nguyên tắc độc lập trong xét xử, vai trò và vị trí của TAND và Viện Công tố. Hơn 80 năm qua, từ một hệ thống đơn sơ, thiếu thốn, đến nay, các cơ quan tư pháp Việt Nam đã trở thành những trụ cột quan trọng trong bộ máy nhà nước, đặc biệt là trong việc giữ vững pháp chế, thực thi công lý, bảo đảm quyền con người và quyền công dân.
Trong gần 40 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, trong đó tư pháp là trụ cột quan trọng. Ví dụ, năm 2002, Nghị quyết số 08-NQ/TW lần đầu đặt vấn đề tư pháp như một phần trung tâm trong công cuộc đổi mới chính trị. Năm 2005, Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đặt ra nhiều nhiệm vụ cụ thể: Xây dựng TAND độc lập, chuyên nghiệp; Viện Kiểm sát nhân dân (KSND) tập trung vào thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Bên cạnh đó, nhiều đạo luật quan trọng đã được ban hành: Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức TAND năm 2014, Luật Tổ chức Viện KSND năm 2014, các bộ luật tố tụng (hình sự, dân sự, hành chính)... đã thiết lập cơ sở pháp lý vững chắc cho hệ thống tư pháp.
    |
 |
Viện Kiểm sát Nhân dân khu vực 11, TP Hải Phòng thực hành quyền công tố và xét xử vụ án trực tuyến. Ảnh: TIẾN DŨNG |
TAND đã trở thành trung tâm thực thi quyền tư pháp với nhiều đổi mới vượt bậc: Xây dựng mô hình TAND 4 cấp tập trung theo thẩm quyền xét xử, độc lập, chuyên nghiệp; ban hành Luật Hòa giải, đối thoại tại TAND nhằm giảm áp lực tranh chấp; tăng cường án lệ, công khai hóa bản án trên cổng thông tin điện tử; áp dụng công nghệ thông tin trong quá trình tố tụng, từ việc nhận hồ sơ đến tống đạt bằng điện tử.
Nhờ đầu tư vào con người, hàng nghìn thẩm phán, thư ký TAND đã được đào tạo bài bản, đạo đức nghề nghiệp và kỹ năng chính trị được đặt lên hàng đầu.
Viện KSND đã chuyển mô hình từ kiểm sát chung sang thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Đây là sự đổi mới lớn, phù hợp xu hướng quốc tế, giúp cho vai trò của kiểm sát viên được nâng cao trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử; Viện KSND đã thực hiện nhiều kháng nghị để bảo vệ tính đúng đắn, nghiêm minh của pháp luật, chống oan sai; hoạt động kiểm sát tại tòa án, trại giam, nhà tạm giữ được tăng cường với các chuyên đề giám sát chỉ đạo quyết liệt. Các kiểm sát viên đã và đang trở thành "người gác cửa công lý", đồng hành với nhân dân bảo vệ lẽ phải, bảo vệ sự thật.
Nghị quyết 27-NQ/TW năm 2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới đã mở ra một giai đoạn phát triển mới, khẳng định yêu cầu cấp thiết xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam toàn diện, hiện đại, trong đó nền tư pháp phải thực sự chuyên nghiệp, công bằng, liêm chính và phụng sự nhân dân. Đặc biệt, lần đầu tiên tư tưởng “tư pháp phục vụ nhân dân” được nhấn mạnh như một nguyên tắc cốt lõi, định hướng cho mọi cải cách từ cơ cấu tổ chức đến quy trình vận hành.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: Phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân là mục đích cao cả nhất của người làm công tác tư pháp. Tư tưởng ấy đã trở thành nền tảng đạo lý, là kim chỉ nam cho các thế hệ cán bộ tư pháp noi theo. Đảng ta cũng khẳng định: Xây dựng nền tư pháp XHCN là vì nhân dân, do nhân dân và phục vụ nhân dân.
Tư pháp vì nhân dân là triết lý cốt lõi xuyên suốt trong quá trình hoạch định chính sách, hoàn thiện pháp luật, tổ chức bộ máy và đào tạo, sử dụng cán bộ. Mỗi bản án, mỗi quyết định tố tụng không đơn thuần là áp dụng pháp luật mà còn là sự thể hiện của công lý, đạo lý, lẽ phải và nhân văn. Đó là tư pháp không vô cảm với số phận con người, không khuất phục trước quyền lực hay vật chất, mà đặt lợi ích hợp pháp của nhân dân vào vị trí trung tâm.
Trong suốt chiều dài 80 năm, tư pháp Việt Nam luôn đứng về phía công lý và quyền con người. Những vụ án lớn, những trường hợp kết án oan sai được minh oan đã khẳng định quyết tâm cải cách, minh bạch và liêm chính của ngành tư pháp. Nhiều kháng nghị giám đốc thẩm từ Viện KSND Tối cao, như trong vụ án của ông Hàn Đức Long ở Bắc Giang, đã thể hiện rõ vai trò kiểm sát bảo vệ quyền lợi của công dân, phục hồi danh dự và nhân phẩm cho người bị hàm oan, đồng thời củng cố niềm tin xã hội đối với công lý.
Một ví dụ nổi bật khác là việc TAND Tối cao tổ chức các phiên tòa công khai, livestream xét xử các vụ án tham nhũng nghiêm trọng không chỉ thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, những phiên tòa này còn là thông điệp mạnh mẽ về tinh thần công khai, minh bạch và cam kết chống tiêu cực trong bộ máy nhà nước.
Bên cạnh đó, nhiều mô hình gần dân, vì dân đã được nhân rộng: Phiên tòa lưu động, hòa giải ở cơ sở, phiên tòa giả định trong trường học, trợ giúp pháp lý miễn phí cho người yếu thế... Tại Sơn La, Lào Cai, Điện Biên, các phiên tòa bằng song ngữ (tiếng phổ thông và tiếng dân tộc thiểu số) đã giúp người dân vùng cao tiếp cận công lý thuận lợi hơn. Ở TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Hà Nội, các tổ công tác "giải quyết thủ tục hành chính tại chỗ" đã mang lại nhiều tiện ích cho người dân nghèo, người cao tuổi và người khuyết tật.
Đặc biệt, trong điều kiện chuyển đổi số, ngành tư pháp đang tích cực xây dựng các cổng thông tin, ứng dụng phần mềm hỗ trợ người dân tra cứu, nộp đơn khởi kiện, tham gia tố tụng mà không cần tiếp xúc trực tiếp. Điều này giúp minh bạch hóa thủ tục, hạn chế nhũng nhiễu và tạo điều kiện tiếp cận công lý dễ dàng hơn cho mọi người dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số.
Phụng sự nhân dân cũng là yêu cầu đặt ra đối với phẩm chất cán bộ tư pháp. Người cán bộ tư pháp phải công minh, liêm chính, bản lĩnh, khách quan và biết đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Phải gần dân, hiểu dân, giúp dân và học dân” chính là chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ trong hệ thống tư pháp.
Tư pháp vì nhân dân không phải là đợi người dân tìm đến công lý mà là chủ động đưa công lý đến với người dân, là bảo vệ quyền của họ trước khi quyền đó bị xâm phạm, là bảo vệ sự thật và phẩm giá con người một cách công bằng, nhân văn và đúng pháp luật. Đây chính là đặc trưng văn hóa của nhà nước pháp quyền XHCN.
Trải qua 80 năm, ngành tư pháp nước ta đã kiên định mục tiêu xây dựng nền tư pháp vì nhân dân, phụng sự Tổ quốc, góp phần to lớn vào việc giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ pháp luật, xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, khoa học-công nghệ phát triển mạnh mẽ và yêu cầu ngày càng cao từ xã hội, tư pháp Việt Nam cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cả về thể chế, tổ chức và con người. Bằng tinh thần thượng tôn pháp luật, bản lĩnh nghề nghiệp, đạo đức trong sáng và trái tim đầy nhiệt huyết.
Với văn hóa vì nhân dân, phụng sự Tổ quốc đạt được trong 80 năm qua, ngành tư pháp sẽ tiếp tục khẳng định vai trò xung kích trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Đại tá, TS HOÀNG CHUNG HIẾU