Văn sĩ cầm bút là lúc họ bắt đầu đối thoại với chính mình trước khi đối thoại với độc giả. Có người đối thoại trầm tĩnh như sương khói buổi sớm. Có người sắc lạnh, thẳng băng như lưỡi dao. Có người để cảm xúc tuôn trào, mỗi câu văn như con sóng vỗ. Và cũng có người viết mà cái tôi lặng như đáy sông, phải cúi xuống thật gần mới nhận ra dòng nước đang âm thầm chảy dưới lớp phù sa.

Cái tôi ấy được hình thành từ lối sống, nếp nhà, từ lịch sử gia đình, những người thầy từng gặp, những lần thất bại âm thầm và những niềm tin bền bỉ được giữ đến tận cùng. Cùng nhìn một cánh đồng, nhưng mỗi người có một cách cảm: Người thấy vàng ươm mùa gặt, người thấy bóng dáng mẹ năm xưa, người nghe được tiếng thở dài của thời gian... Vì thế, văn học là câu chuyện của “cái nhìn”.

Khi đọc một tác phẩm, điều ta gặp đầu tiên thường là cái tôi nghệ sĩ trong giọng điệu. Một câu văn nói về mưa nhưng mỗi nhà văn tạo ra một cơn mưa khác nhau: Có cơn mưa mềm như lụa, có cơn mưa dồn dập như kèn xung trận, có cơn mưa mỏng tang như nỗi buồn tuổi trẻ. Giọng điệu mở ra cánh cửa cho người đọc lắng nghe tâm hồn đang rung lên trên từng con chữ.

leftcenterrightdel

Những tác phẩm của nhà văn Nguyễn Minh Châu luôn được độc giả yêu mến bởi cái tôi hòa trong cái chúng ta. Ảnh: ĐỨC TÂM

Rồi đến người kể chuyện. Dù ở ngôi thứ nhất hay thứ ba, dù giấu mình trong nhân vật hay xuất hiện trực tiếp, nhà văn vẫn để lại dấu chân trong từng bước đi của câu chuyện. Họ có thể xây dựng người lính, người mẹ hay một kẻ lạc lõng giữa phố thị; nhưng cách các nhân vật ấy nhìn đời, chịu đựng hay nổi loạn luôn thấp thoáng bóng dáng tác giả: Ưu tư, bí mật, đau đớn và cả những điều chưa nói thành lời.

Ngôn ngữ và hình ảnh nghệ thuật cũng là nơi cái tôi cất tiếng rất khẽ nhưng sâu. Người chuộng sự trong trẻo dùng ngôn ngữ gọn mà sáng. Người thích triết luận thiên về câu dài, như sợi khói suy tư. Có người tạo thế giới bằng màu sắc, có người bằng âm thanh; có người chỉ cần một hình ảnh nhỏ-cánh cửa cũ, chiếc bóng trên tường-đã nói hộ cả một đời người.

Ẩn sâu nhất trong cái tôi nghệ sĩ chính là hệ giá trị của tác giả. Đó là điểm tựa để nhìn thiện-ác, đẹp-xấu, cao thượng-thấp hèn. Hệ giá trị ấy quyết định điều gì được nhấn mạnh, điều gì bị bỏ qua, điều gì khiến người viết day dứt hay khát vọng. Một tác phẩm chạm được vào người đọc, thường bởi hệ giá trị của nhà văn đã rung lên trúng sợi dây cộng hưởng trong tâm hồn họ.

Cấu trúc tác phẩm cũng bộc lộ cái tôi trong cách tổ chức thời gian và cảm xúc. Có người kể đời như dòng suối chảy thẳng. Có người sắp xếp theo những vòng xoáy, những đứt gãy, những ký ức vụt sáng rồi khuất đi. Có người dẫn độc giả đi qua vùng tối để bất ngờ mở ra một khe sáng cuối hành trình.

Nhờ những yếu tố ấy mà “cái tôi” trở thành điều không nhìn thấy nhưng cảm nhận được, thấm dần vào độc giả. Văn học không chỉ ghi lại đời sống mà còn ghi lại cách một con người sống, yêu, hoài nghi và vượt lên chính mình.

Trong kháng chiến, văn nghệ sĩ luôn viết từ thực tiễn cuộc sống và vì cuộc sống, phục vụ độc giả, nhân dân. Họ chiến đấu bằng tác phẩm để cổ vũ, động viên bộ đội và toàn dân đoàn kết, kiên cường chiến đấu vì độc lập, tự do và thống nhất đất nước.

Trong chống Pháp, cái tôi nghệ sĩ rực cháy ở những người coi văn chương là ngọn đuốc soi đường. Tô Hoài trong “Vợ chồng A Phủ” mang cái nhìn của người từng đi bộ đường rừng, ngủ nhà sàn, nghe tiếng khèn hòa cùng núi rừng. Ông không đứng ngoài mà đắm mình vào đời sống miền núi. Cái tôi mềm sâu, tinh tế ấy mở ra ánh sáng trong số phận con người bị áp bức mà vẫn cứng cỏi như đá núi.

Nam Cao để lại cái tôi sắc sảo của người luôn tự vấn lương tri. “Đôi mắt” không chỉ đặt câu hỏi nghệ sĩ phải đứng ở đâu mà còn là sự chất vấn của chính tác giả với bản thân: Đứng xa hay gần nhân dân. Cái nhìn tỉnh táo ấy đôi lúc lạnh để không bị đánh lừa bởi hào quang bề mặt, nhưng vẫn giữ trái tim nóng. Mâu thuẫn nội tâm ấy làm nên Nam Cao: Trí tuệ và nhân hậu, sắc lạnh và xót xa.

Sang chống Mỹ, cái tôi nghệ sĩ lại phong phú, đa thanh sắc hơn. Nguyễn Thi với “Người mẹ cầm súng”, “Những đứa con trong gia đình” mang cái tôi của người chiến sĩ tuyến lửa miền Nam. Văn ông khốc liệt mà tha thiết, như có tiếng máu chảy dưới câu chữ. Đó là cái nhìn hướng ngoại mãnh liệt, ngưỡng vọng và thương xót nhân dân.

leftcenterrightdel
Tiểu thuyết "Dấu chân người lính" được tái bản nhiều lần. Ảnh: ĐỨC TÂM

Nguyễn Minh Châu từ “Mảnh trăng cuối rừng” đến “Bến quê” sau chiến tranh lại hướng nội nhiều hơn. Ông đặt ra những câu hỏi về lẽ sống, về hy sinh. Cái tôi của ông đầy chiêm nghiệm, trầm lắng, như tiếng thở dài kín đáo của người từng đi qua nhiều lớp phù sa tâm hồn.

Phạm Tiến Duật phóng khoáng như gió Trường Sơn. Cái tôi trẻ trung, ngang tàng nhưng trong sáng của ông mang nhịp thở của thế hệ “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”: Tự tin, lạc quan, không màu mè, coi gian khó là chuyện thường ngày.

Sau chiến tranh, cái tôi nghệ sĩ tiếp tục được thể hiện đa dạng hơn. “Thời xa vắng” của Lê Lựu cho thấy một cái tôi nhiều day dứt khi nhìn lại chiến tranh và hậu chiến. Ông đi thẳng vào sự yếu đuối, trả giá của con người-chân thực và gần gũi.

Nhìn chung, cái tôi nghệ sĩ của nhà văn Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến có 3 đặc điểm nổi bật.

Đó là cái tôi hòa trong cái chúng ta. Nhà văn viết trong tiếng gọi của Tổ quốc, gắn với nhiệm vụ cách mạng. Nhưng mỗi người vẫn giữ giọng điệu riêng: Mềm như Tô Hoài, sắc như Nam Cao, hùng tráng như Nguyễn Đình Thi, nồng nàn như Nguyễn Thi, chiêm nghiệm như Nguyễn Minh Châu, trẻ trung như Phạm Tiến Duật.

Đó là cái tôi gắn bó, hướng về nhân dân. Hình tượng con người Việt Nam là trung tâm, là cột mốc tinh thần của tác phẩm.

Đó là cái tôi không bi lụy, mà giàu trữ tình mang sắc thái văn hóa Việt Nam. Giữa bom đạn vẫn ánh lên nguồn sáng của niềm tin và lạc quan.

Chính những cái tôi ấy khiến văn học thời chiến không chìm trong tiếng súng mà vẫn tỏa sáng nhân văn, giữ nụ cười giữa những năm tháng khốc liệt, để hôm nay mỗi lần đọc lại, ta vẫn nghe nhịp chân của cả một thế hệ đang đi tới.

VŨ VÂN