Bố trở thành lao động chính trong nhà, phụ giúp bà nội tôi nuôi các cô chú ăn học. Bố tham gia phong trào xã đoàn, đi làm các công trình thanh niên và chủ hôn cho nhiều đám cưới. Trong hợp tác xã, lúc bố tôi làm ở bộ phận thu chia nông sản, khi lại làm cán bộ thủy lợi. Nhưng được vài năm, những vết thương chiến tranh cứ trở đi trở lại, khiến bố không thể tiếp tục tham gia công tác. Rồi một thời gian sau nữa, thương tật từ cánh tay trái bị gãy và xương hông bên phải trở nặng khiến bố không còn làm được những công việc cần mang vác nặng. Thay vào đó, bố chọn việc phù hợp hơn, chăm lo kinh tế gia đình, phục vụ bà con trong vùng.

Bố làm nghề sửa nồi đồng, chậu nhôm, đạp xe khắp làng trên xóm dưới. Tôi còn nhớ mỗi khi ngâm rửa chiếc nồi đồng ba mươi, bố lại để tôi ngồi vào trong rồi cho lượn một vòng quanh ao như tàu chiến. Rồi có thời kỳ, bố và anh trai tôi dựng khuôn đổ ngói xi măng bán cho các nhà xây trong vùng.

Sau mùa thu hoạch, bố đắp lò đặt bễ nổ bỏng ngô, làm bánh gạo cho mẹ tôi đem bán khắp các chợ, các ngõ ngách làng quê. Đây có lẽ là nghề mà bố mẹ tôi làm lâu hơn cả. Tôi nhớ những mùa Trung thu. Bắt đầu từ rằm tháng Bảy, khi các làng rộn rịch tiếng trống tập văn nghệ thiếu nhi, ngõ nhà tôi nhộn nhịp người ra vào. Họ đến từ các làng xóm trong vùng. Hồi ấy, nổ bỏng ngô còn là một việc lạ, hiếm nơi có, thành thử nhà tôi đông khách. Nhiều hôm người các làng phải xếp thành một hàng dài từ đầu cổng vào đến cuối sân, chờ đến lượt. Tôi tuy còn nhỏ nhưng rất thích được bố giao nhiệm vụ quay bễ. Khi chiếc đồng hồ hơi căng kim, quả nổ ngô tròn dài như quả bom được mở nắp, một tiếng nổ “bùm” vang lên, ngân nga khắp các ao chuôm quanh xóm. Khói xanh bay mù mịt. Khi khói chưa tan, đám trẻ con đi theo người lớn đã háo hức lao ngay vào trong chiếc “túi dây gai” khổng lồ vét bỏng. Mỗi lần như thế, bố dừng lại, quệt ngang những giọt mồ hôi đang đầm đìa trên mặt, khẽ nở một nụ cười.

Đầu những năm chín mươi, bố tôi xin địa phương miếng đất gần nhà để làm quán bán hàng. Chỗ đó rộng chừng hai chục mét vuông; bên cạnh trước đây là sân đình, rồi về sau này là sân kho hợp tác. Khi trường mẫu giáo mọc lên giữa trung tâm, phần đất rìa đó bị bỏ hoang, gạch ngói vụn ngổn ngang, cây cỏ rậm um tùm. 

Quán là một căn nhà tường vôi, hoành trên mái là những cây luồng, rui mè làm bằng tre và lợp mái ngói xi măng. Bố tôi bán những mặt hàng tạp hóa và nhiều thứ cần thiết cho người dân trong làng, cả xi măng, thuốc trừ sâu, phân đạm. Nhưng cũng như những phiên chợ làng quê, quán chỉ mở vào khung giờ nhất định: Những sáng sớm, buổi trưa và khi trời chiều chạng vạng. Bởi đó là khoảng thời gian người dân trong làng tranh thủ mua sắm trước và sau khi ra đồng. Sáng thì phân đạm, thuốc trừ sâu cho người làm đồng đi ngang; trưa thì tí muối, ít mì chính, chai nước mắm cho người làm đồng về sớm thổi cơm; nhá nhem thì gói thuốc lào, vài lạng bánh đa, gói lạc rang hay cút rượu...

leftcenterrightdel
Minh họa: HÀ CHUYÊN 

Sau này, bố tôi làm thêm cả nghề sửa chữa xe đạp. Dù không khéo tay nhưng những thao tác kỹ thuật đơn giản bố đều có thể tự mày mò, nếu khó hơn thì chỉ cần nhờ bác sửa xe làng bên làm mẫu một lần là có thể làm lại được. Rồi khi làng khấm khá, xe đạp ngày càng nhiều thêm. Xe đạp cho học sinh đi học, cho người lớn đi chơi, đi chợ, chở hàng và cả xe thồ chở ngô khoai, rơm rạ, thậm chí chở cả phân bón ra đồng. Khách sửa xe cũng vì thế mà càng ngày càng đông hơn. Có thu nhập ổn định, bố tôi dành cả ngày cho quán. 

Cũng trong những năm đó, quê tôi rộ lên phong trào đánh số đề. Chiều chiều, nơi bờ ao sân đình, người làng tôi tụ họp bàn tán xôn xao về kết quả xổ số. Những tờ thơ đề, những quyển giải giấc mơ được truyền tay nhau, người lớn, thanh niên và cả trẻ con cũng luận bàn vanh vách. Dù vẫn biết rằng “đánh đề ra đê mà ở” nhưng “một ăn bảy mươi”, họ cứ lao vào như con thiêu thân. Sau này, nhiều người chơi số đề phải bán cả đất, cả nhà, tán gia bại sản; nhiều người ôm đề, chủ đề phải bỏ làng đi biệt xứ. Chỉ có những người kiên quyết không chơi thì còn khấm khá. Bởi quán nhà tôi ở vào vị trí đắc địa trong làng và vì bố tôi là người có uy tín nên nhiều lần người ta “đặt vấn đề” mời bố “mở sổ ghi đề”, thậm chí “chỉ cần đứng ra làm tin thôi cũng được”. Nhưng bố tôi kiên quyết từ chối.

Bố tôi bảo: “Nhà nước cho tôi mượn miếng đất này để nhì nhằng kiếm ăn chân chính, có chết đói cũng không bao giờ tham gia vào bài bạc”. Họ quay mặt bỏ đi kèm những lời dè bỉu. Thực tế bao nhiêu năm qua đã chứng minh, quán của bố tôi chỉ bán những mặt hàng thiết yếu phục vụ bà con trong làng và cũng chỉ lấy công làm lãi, tuyệt không bao giờ làm ăn phi pháp kiếm lời.

Sau này khi đã lớn tuổi, bố tôi không còn làm nghề sửa chữa xe đạp nữa. Quán tuy vẫn bán những mặt hàng quen thuộc nhưng do sự cạnh tranh của những cửa hàng mới mở nên bán rất chậm. Hằng ngày, bố tôi vẫn ra mở quán nhưng chủ yếu phục vụ anh em bè bạn hút thuốc lào và chơi cờ tướng.

Cách đây mười lăm năm, bố tôi chọn một cây bàng giống to khỏe nhất từ cây bàng bờ ao đình trồng bên cạnh quán. Nhờ được chăm sóc tốt nên cây bàng lớn lên rất nhanh. Tôi về phép, bố chỉ tay vào gốc cây rồi bảo: Một ngày kia bố sẽ đi xa, nhưng nhất định cây bàng còn mãi.

 Khi ngọn cây bàng vượt qua mái quán thì cũng là lúc bố tôi đưa ra một quyết định quan trọng: Dỡ bỏ quán, tặng lại đất cho làng. Quyết định quá bất ngờ, khiến nhiều người ngỡ ngàng. Bởi, vị trí đó không hề ảnh hưởng đến giao thông đi lại hay mỹ quan khu vực, mà nếu bán cho người khác, bố tôi cũng có một khoản tiền kha khá.

Tự tay bố tôi dỡ bỏ cái quán đã gắn bó với hơn hai mươi năm cuộc đời mình, rồi đổ bê tông, trả lại mặt bằng phẳng phiu, nối liền với ngã ba đường làng. Chỗ gốc cây bàng, bố xây bồn viền hình tròn bao quanh. Rồi bố tôi đặt một bộ bàn ghế đá. Bộ bàn ghế đá trơn bóng, không ghi tên người đã tặng. Hôm mọi việc hoàn tất, bố tôi nói với người làng: "Nhờ đất làng mà bao nhiêu năm qua vợ chồng, bố con tôi được miếng cơm ăn, nay già rồi không còn làm được gì nữa thì trả lại cho làng và làm thêm đôi chút cho cảnh đẹp quê hương". Giản đơn chỉ có thế.

Ngày bố tôi mất, cây bàng đã trưởng thành. Những chiếc lá thẫm xanh ken dày vào nhau. Tán cây sum sê che kín khu đất ngã ba làng-nơi người lớn, trẻ con vẫn ngồi nghỉ chân, hóng mát, vui đùa. Trên cành cây chi chít những chùm quả bàng đang xanh, còn dưới đất trải đầy những quả bàng đã chín...

NGUYỄN HỘI