Tôi đọc đi đọc lại cánh thư nhỏ viết bằng mực tím. Mấy dòng hò hẹn làm con tim muốn nhảy ra ngoài. “Chủ nhật cố gắng lên chỗ Th nhé! Rồi mình cùng đi chụp ảnh kỷ niệm”. Tôi không thể hình dung dáng vóc người bạn thân thiết giờ ra sao. Nhưng chắc mái tóc Thuyết vẫn đen dài như bốn năm trước. Được chụp ảnh với con gái Hà Nội là một mơ ước không tưởng của mấy chàng thanh niên nhà quê. Vậy mà ngày mai tôi sẽ có cơ hội ấy. Thuyết nói ở gần trường điện ảnh có một hiệu ảnh chụp đẹp lắm. Cứ nghĩ tới lúc được đứng cùng bạn gái trước tấm phông vẽ cảnh Hồ Gươm là run cả người. Tôi mới được đơn vị cho đi học lớp bồi dưỡng văn hóa-nghệ thuật của cục chính trị, tổ chức tại Hà Đông. Từ đây lên Ngã Tư Sở chỉ vài cây số. Ngày mai là chủ nhật, tôi đã “hối lộ” anh Thường bao thuốc lá Tam Đảo để mượn chiếc xe đạp tiếp phẩm khoảng hai tiếng đồng hồ.

Sáu năm trước, Thuyết cùng gia đình theo cơ quan đi sơ tán trên quê tôi. Chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ làm đảo lộn cuộc sống và công việc của người thành phố, nhiều gia đình đi sơ tán để tránh bom đạn. Chúng tôi học cùng lớp và rất thân nhau. Hai năm sau, tình hình yên ổn nên Thuyết lại theo gia đình về Hà Nội. Năm 1972, sau bốn năm xa cách chỉ liên hệ bằng thư từ, tôi mới có cơ hội gặp lại Thuyết. Ngày đó rồi cũng đã tới. Thuyết nắm tay tôi, kéo vào phòng khách của cơ quan. Cứ như thế, hai đứa ngồi cạnh nhau, tay phải này siết chặt tay trái kia, không chịu buông ra, luôn miệng nhắc lại chuyện cũ, nói tới chuyện mới, chẳng thấy khát nước. So với bốn năm trước, Thuyết trổ mã thành một thiếu nữ xinh đẹp, có phần mũm mĩm. Thuyết thay đổi nhiều, kể cả mái tóc dài đen cũng bị cắt tém ngang vai cho gọn gàng. Thuyết bây giờ đã là nhân viên của trường điện ảnh, còn tôi là anh bộ đội được khen kẻng trai. Cả hai đều đã mười chín tuổi.

leftcenterrightdel
Minh họa: PHẠM HÀ 

- Học xong ở lại làm rể Hà Nội đi!

- Không được đâu! Còn phải về đơn vị, xem cấp trên phân công công tác như thế nào. Với lại trai quê vụng lắm...

- Thôi đi! Cứ quê thế này, khối cô Hà Nội xin chết đấy!

- Chả dám, lấy vợ quê cho lành. Không về nhanh, bọn bạn gái đi lấy chồng hết. Cái Tĩnh lớp trưởng lấy chồng rồi đấy!

Bàn tay tôi bị giật giật mấy cái liền:

- Khiếp! Mới mười chín tuổi mà chồng con gì hở trời?

Chúng tôi ngồi trên chiếc ghế gỗ dài trong phòng khách. Thuyết cứ nắm chặt tay tôi, không chịu buông ra. Hai bàn tay nắm vào nhau đến gần tiếng đồng hồ, tê dại. Thuyết chuyển chủ đề:

- Cậu đã đọc xong cuốn “Những linh hồn chết” chưa?

Hồi còn học cùng, Thuyết có tặng tôi cuốn tiểu thuyết “Những linh hồn chết” của Gogol, bắt đọc cho hết, nhưng tôi không đọc nổi loại sách này. Tôi gãi đầu, thú nhận:

- Chưa! Mình toàn đọc "Tây du ký" với "Tam quốc diễn nghĩa".

- Thế đi bộ đội có vất vả lắm không?

- Bình thường! Được cái ăn no. Trai nhà quê thiếu ăn từ nhỏ, vào bộ đội một năm mình tăng gần mười cân đấy.

Thuyết nói cô học kém, không tốt nghiệp nổi lớp mười. Ông bố xin cho học trường trung cấp, xong về làm đánh máy cho trường điện ảnh. Giờ công ăn việc làm coi như ổn định. Chỉ chờ lấy chồng nữa là xong.

- Bây giờ đi chụp ảnh nhé? Chụp chung một tấm, phóng to, tô màu làm kỷ niệm. Đừng lo, Thuyết có tiền.

Thuyết hỏi tôi có thích mặc thường phục để vào mượn các chú chiếc áo sơ mi. Tôi lắc đầu. Mặc quân phục cho đẹp. Với lại, tôi cũng vừa được phong hạ sĩ, muốn chụp tấm ảnh gửi về nhà khoe bố mẹ và các em. Mãi tới lúc này, bàn tay tôi mới được buông ra, cảm thấy ê ẩm cả cánh tay. Vừa líu ríu dẫn nhau ra đến cổng cơ quan, bỗng tiếng còi báo động rú lên lanh lảnh. Một giọng nữ bình tĩnh hướng dẫn:

- Đồng bào chú ý! Máy bay địch hiện cách Hà Nội năm mươi cây số về hướng Đông Bắc. Đồng bào khẩn trương tìm nơi trú ẩn!

Tôi đứng chống nạnh, hướng mắt lên trời theo dõi. Chẳng thấy động tĩnh gì. Mấy cô chú trong cơ quan đã chạy ra trước sân. Ở đó có mấy chiếc hầm cá nhân được đúc bằng bê tông như ống cống chôn nửa chìm nửa nổi, bên trên có nắp đậy.

- Hai đứa xuống hầm đi nhá. Không chủ quan được đâu!

Một cô trung niên thò đầu lên khỏi hầm nói như quát:

- Nhanh lên, máy bay nó xẹt một cái là tới bây giờ!

Bỗng có tiếng "bục, bục" xung quanh, đất rung chuyển, cửa kính tầng hai ngôi nhà vỡ loảng xoảng. Chưa kịp hiểu chuyện gì thì tiếng máy bay như xé vải ngay trên đầu. Tụi Mỹ ném bom rồi. Tôi kéo Thuyết nhảy bừa xuống chiếc hầm gần nhất, rồi lấy hai tay đẩy chiếc nắp bê tông, che kín lại.

- Đồng bào chú ý! Đồng bào chú ý! Máy bay B-52 đang đánh vào thành phố! Hãy ở yên trong hầm trú ẩn!

Những tiếng ùng ục ngày càng nhiều lên, ánh chớp kèm những trận rung mạnh như động đất. Tôi cảm thấy khó thở. Bây giờ tôi mới phát hiện Thuyết ngồi trong lòng tôi. Vì hầm chật quá nên khi cô nàng nhảy xuống liền ngồi luôn trên hai đùi tôi. Có tiếng ì ì vọng trên bầu trời, hình như là tiếng máy bay B-52. Lát sau, tiếng bom nổ uỳnh uỳnh phía xa, sau này chúng tôi mới biết chúng đánh phá phía kho xăng Đức Giang. Lại một đợt nổ gần, ngôi nhà hai tầng lắc lư muốn sập xuống. Thuyết ôm chặt lấy tôi, mặt hai đứa sát nhau đến nỗi có thể cảm nhận được từng nhịp thở. Một dòng điện kỳ lạ chạy rần rật từ đầu xuống chân làm tôi tê dại, tôi cũng đưa tay ôm chặt lấy Thuyết... Khoảnh khắc kỳ lạ làm hai đứa quên tiếng bom nổ, tiếng tường nhà, cửa kính đổ vỡ loảng xoảng xung quanh. Tất cả cứ ù ù như thứ âm thanh ma quái... Bỗng nắp hầm được kéo ra, ánh sáng ùa vào. Tiếng mấy cô chú lao xao, lo lắng hỏi hai đứa có sao không.

Tôi vô cùng ngượng ngùng, còn Thuyết đỏ bừng hai má. Chúng tôi vội buông nhau ra nhưng không thể đứng dậy ngay, vì ngồi ở một tư thế gò bó quá lâu.

- Chú ơi, kéo cháu lên với!-Thuyết cất tiếng.

Vừa đỡ Thuyết, mấy cô chú vừa trêu đùa. Ôi giời, tưởng sợ quá ngất đi rồi ấy chứ! Tiếng cười rộn lên, lẫn trong mùi khói bom khét lẹt.

Tôi nhìn đồng hồ giật mình:

- Mình phải trở lại đơn vị thôi. Quá phép rồi!

- Tại máy bay Mỹ chứ tại mình đâu. Cứ bình tĩnh mà về.

Nhưng tôi tìm quanh không thấy chiếc xe đạp tiếp phẩm đâu cả. Chắc nó bị hơi bom thổi bay đi hoặc bị vùi trong đống gạch ngói kia. Thuyết nhanh nhẹn dắt ra chiếc xe Thống Nhất nữ còn mới đưa cho tôi.

- Lấy xe Thuyết mà đi. Hôm nào Thuyết đi tàu điện xuống Hà Đông chơi sẽ mang về.

Bây giờ đã là hai giờ chiều, tôi lẽ ra phải có mặt ở đơn vị lúc mười giờ. Muộn gần bốn tiếng. Ra khỏi Ngã Tư Sở, một đội kiểm soát làm nhiệm vụ chốt chặn dừng mọi người lại.

- Đồng chí quay lại chỗ cũ đi. Có lệnh cấm rồi!

Tôi phải giải thích, trình bày một hồi, và rằng tôi phải về đơn vị trực chiến đấu... mới được qua. Trước khi lên xe, một đồng chí còn giục tôi:

- Có mấy cây số thôi nhưng đồng chí phải đi nhanh lên!

Tôi guồng chân đạp xe, trong lòng đầy lo lắng. Muộn giờ phép là một nhẽ nhưng làm mất xe tiếp phẩm là phải đền. Chiếc xe là phương tiện vận chuyển lương thực, thực phẩm của cả đơn vị, thiếu nó thì anh em tiếp phẩm chỉ còn nước đi bộ. Nghĩ đến đấy, tôi chợt rùng mình lo sợ. Phải xin bố chiếc xe Vĩnh Cửu của nhà đem xuống đền thôi...

Chỉ huy đơn vị nói tôi báo cáo và viết bản tường trình. Trong buổi sinh hoạt đơn vị, thủ trưởng quán triệt mọi người cần cảnh giác vì bọn Mỹ bắt đầu leo thang dùng B-52 đánh phá cả Hà Nội, Hải Phòng. Trường hợp của tôi, do hoàn cảnh đặc biệt nên không phải bồi thường chiếc xe. Thuyết cũng không kịp xuống Hà Đông thăm tôi và lấy xe đạp về. Mọi chuyện bị đảo lộn hết. Mấy ngày sau chủ nhật đáng nhớ ấy, Hà Nội có lệnh triệt để sơ tán. Đêm đêm, từng đoàn người với xe đạp, xe ba gác dài dằng dặc ra khỏi nội thành. Tôi đứng từ trong cổng đơn vị, buồn rầu nhìn đoàn người tiếp nhau đi qua, không biết có gia đình Thuyết ở trong đám đông ấy không? Hai ngày tiếp theo, lớp học của tôi cũng được sơ tán về một vùng quê huyện Chương Mỹ. Chiếc xe đạp hiệu Thống Nhất cũng được tôi mang theo. Nó làm tôi cảm thấy như có Thuyết bên cạnh, thoang thoảng mùi mồ hôi lẫn hương xà phòng thơm... Chúng tôi mất liên lạc hoàn toàn. Xong lớp tập huấn, tôi lại lẽo đẽo đạp chiếc xe về đơn vị, cách Hà Nội hơn một trăm cây số. Sau này, tôi mới nhận được thư Thuyết. Trong thư nói gia đình đi sơ tán lên Thái Nguyên, còn chiếc xe đạp, Thuyết dặn: “Cứ để đấy, bao giờ lấy chồng, Thuyết đem về”. Cuối năm đó, tình hình chiến sự ở Hà Nội càng thêm ác liệt. Cuộc chiến đấu của quân và dân Thủ đô đánh trả không quân Mỹ càng khốc liệt, căng thẳng những ngày cuối năm. Có lần, tôi được phân công đi công tác về Hà Nội, đã không khỏi bàng hoàng, đau xót khi đi ngang khu phố Khâm Thiên. Khu phố quen thuộc ngày nào giờ là một dãy đổ nát, thoang thoảng mùi khói nhang.

***

Mấy ông bạn nâng cốc chào mừng câu chuyện tôi vừa kể. Bốn anh em cùng đơn vị, từ khi nghỉ hưu, cứ đến dịp 22-12 là tập trung ở nhà ai đó. Năm nay là ở nhà tôi.

- Câu chuyện hay thế, sao hôm nay lão mới kể?

- Khà khà! Còn phải xin phép bà xã đã.

- Thế chiếc xe đạp Thống Nhất sau đó có về với cô chủ không?

- Có chứ. Cô ấy mang theo khi lấy chồng rồi.

Mấy người nhao nhao hỏi bà chủ nhà, liệu câu chuyện đúng bao nhiêu phần trăm. Bà vợ tôi bĩu môi, các bác nghe gì cái lão nhát chết ấy! Nhưng rồi mấy lão như chợt nghĩ ra điều gì và à lên khi biết chiếc xe đạp hiệu Thống Nhất hiện nay vẫn đang ở nhà tôi và con gái lớn của vợ chồng tôi biết chuyện đã nhất định xin bố mẹ chiếc xe, giữ làm kỷ niệm...

Truyện ngắn của PHÙNG PHƯƠNG