Ngọn đồi phía bình minh
 
Người ta hun tổ ong đất
tàn rơi xuống rừng hồi
xuống hai mươi năm của cha
 
tàn tro nức nở nhìn trời
gục xuống cơn mưa
lũ quét cuốn phăng nốt mùa thất bát
môi càng ngấm men rượu càng khô
tay càng khua khoảng không càng rát
 
sáu mươi tuổi
cha lật đất trồng na xen chuối
đàn ong rủ nhau về xây tổ
mái tranh thêm dây bầu dây bí
mồ hôi khơi hào cản lửa quanh đồi
 
hướng ánh mặt trời
tôi như thân cây trở mình sau trận bão
làm đường cho con kiến nhỏ
cõng trên vai bốn mùa.
 
leftcenterrightdel
Minh hòa: MẠNH TIẾN 
Lòng người sau ánh mắt
 
Con đèo tẽ ngón chân chim
quắp cong lưng núi dần chìm vào mây
tiễn anh đến độ trăng gầy
ngoảnh đầu nhìn lại tóc đầy bông lau
xa rồi trầu thắm hương cau
con dao quắm mẻ làm đau bụng rừng
khóm chàm đợi bước dửng dưng
để vuông vải trắng nhuộm từng mạng tơ
thương nhau biết đến bao giờ
lời qua sông bóng thẫn thờ còn trông
câu sli chín nẫu vườn hồng
anh về mót nắng mùa đông thành thừa
lòng người sau ánh mắt đưa
dù đỉnh núi sắc hạt mưa vẫn tròn.
---------
 
Lân đá cổ tích
 
về hang Hú căng tràn ngực gió*
hong quýt đường chín ruộm Bắc Sơn
bữa trưa gác sang chiều em hái
những mặt trời đã nguội trong thung
 
lời then quyện sánh dây tính tẩu
kể chuyện rừng nghiến trên cõi sương
ai ngả nón lần theo tiếng sáo
chân đã dừng lại với núi thương
 
khói bếp mời khách mâm cơm rượu
say tìm phiến đá trải giữa thung
vòng tay với mảnh trăng làm gối
mơ thấy nàng tiên tới ngủ cùng.
 
(*) Hang Hú: Một địa danh ở tỉnh Lạng Sơn. Theo tiếng Tày địa phương: Lân đá nghĩa là thung lũng đá.
---------
 
Trực diện
 
đi chưa hết con chữ
em lỡ cỡ lạc đường
quên hết thơ tình mới biết thương anh
theo không kịp tuổi trên tóc mình đành nồng nàn với bút
 
giọt mực này khô nhanh
cặm cụi gặt từng trang gói ghém để dành
con chữ dạy làm người lương thiện
hạt gạo ơn gốc rạ lấm bùn
 
chữ như nón Tày mẹ đội cho em
như người đàn bà căng ngực đêm vượt cạn
như dao quắm từ chối gỗ mềm
 
nếu chữ nào cũng hiền
thì năm châu này không nơi nào ám mùi thuốc súng.
----------