Thơ lục bát là thể thơ truyền thống độc đáo, được xem như tinh hoa của thi ca Việt Nam: Giản dị mà sâu lắng, mềm mại mà kiên cường, gần gũi mà bay bổng. Bởi nó không chỉ gắn bó sâu sắc với đời sống tinh thần dân tộc mà còn thể hiện đầy đủ vẻ đẹp của ngôn ngữ và tâm hồn người Việt.
Điểm nổi bật trước hết của thơ lục bát nằm ở hình thức cấu trúc rất chặt chẽ mà vẫn uyển chuyển, giàu nhạc tính. Bài thơ được xây dựng từ cặp câu 6 chữ và 8 chữ, trong đó, cách gieo vần nối tiếp tạo nên nhịp điệu liên hoàn, uyển chuyển, dễ đọc, dễ nhớ. Chữ thứ sáu của câu lục bắt vần với chữ thứ sáu của câu bát, rồi chữ thứ tám của câu bát lại bắt vần với chữ thứ sáu của câu lục tiếp theo. Cách vận hành vòng tròn ấy khiến thơ lục bát giống như một dòng chảy không dứt, vừa mượt mà vừa bền chặt, tạo nên “dòng nhạc dân tộc” đặc sắc.
    |
 |
Để thơ lục bát không lạc nhịp. Minh họa: LÊ ANH
|
Lục bát mang tính thuần Việt, khác hẳn với nhiều thể thơ như thất ngôn, ngũ ngôn... Cấu trúc lục bát phù hợp với thanh điệu tiếng Việt, một ngôn ngữ giàu nhạc tính nhờ hệ thống thanh bằng và trắc. Chính vì thế, chỉ ở Việt Nam, thể thơ này mới phát triển rực rỡ, trở thành “quốc hồn, quốc túy”.
Thơ lục bát có khả năng biểu đạt vô cùng linh hoạt, từ lời ca dân gian đến những áng văn chương bác học. Người nông dân bình dị có thể cất lên câu lục bát trong ca dao, hò, vè để bộc lộ tình cảm, triết lý sống: Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra/ Một lòng thờ mẹ kính cha/ Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con; Anh em nào phải người xa/ Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân/ Yêu nhau như thể tay chân/ Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy (ca dao). Người nghệ sĩ lớn có thể sáng tạo nên những tác phẩm kiệt xuất như "Truyện Kiều" của Nguyễn Du, "Lục Vân Tiên" của Nguyễn Đình Chiểu, vừa gần gũi với đời thường vừa đạt đến đỉnh cao nghệ thuật.
Đặc điểm nổi bật nữa của lục bát là tính truyền miệng mạnh mẽ. Nhờ nhịp điệu dễ thuộc, vần điệu ngân nga, lục bát đã trở thành phương tiện ghi nhớ và lưu truyền những kinh nghiệm sống, đạo lý ứng xử qua bao thế hệ.
Có thể nói, thể thơ này chính là kho tàng trí tuệ dân gian kết tinh bằng ngôn từ. Điều này khiến thơ lục bát có khả năng thích ứng với mọi thời đại, có sức sống lâu bền. Dù xuất hiện từ rất sớm, lục bát vẫn còn nguyên giá trị trong đời sống hiện đại, được nhiều tác giả đương đại sử dụng để thể hiện tâm tư, khát vọng hôm nay.
Ví dụ, trong dòng thơ lục bát trữ tình-chính luận nổi bật có thơ Tố Hữu qua các bài “Bầm ơi”, “Việt Bắc”. Vẫn là nhịp điệu ngọt ngào, tha thiết nhưng chuyển tải tư tưởng chính trị sâu sắc, khẳng định sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân.
"Bầm ơi, sớm sớm chiều chiều
Thương con, bầm chớ lo nhiều bầm nghe!
Con đi trăm núi ngàn khe
Chưa bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm
Con đi đánh giặc mười năm
Chưa bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi.
"Bầm ơi", Tố Hữu)
Hay như Nguyễn Duy lại dùng lục bát phác họa hình ảnh cây tre để toát lên phẩm chất của con người Việt Nam kiên cường, bất khuất trước mọi khó khăn, thách thức và vượt qua tất cả với tinh thần lạc quan, yêu thương, đoàn kết:
“Thân gầy guộc, lá mong manh,
Mà sao nên lũy, nên thành tre ơi?
Ở đâu tre cũng xanh tươi,
Cho dù đất sỏi, đất vôi bạc màu.
Có gì đâu, có gì đâu,
Mỡ màu ít chắt dồn lâu hóa nhiều.
Rễ siêng không ngại đất nghèo,
Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù.
Vươn mình trong gió tre đu,
Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành.
Yêu nhiều nắng nỏ trời xanh,
Tre xanh không đứng khuất mình bóng râm”.
("Tre Việt Nam", Nguyễn Duy).
Lục bát cách mạng kế thừa sức mạnh ngôn ngữ dân gian, trở thành “thơ của nhân dân”, ai cũng có thể cảm nhận và hát theo, tạo nên sức cuốn hút lâu dài. Trong thơ cách mạng, nhịp 6-8 có thể ngân nga như điệu ru, lại có thể dồn dập như nhịp quân hành. Đây chính là sự uyển chuyển đặc biệt tạo ra khả năng dung hợp cảm xúc và lý tưởng để vừa nói được tình riêng vừa chuyên chở tình chung (tình dân tộc, lý tưởng cách mạng). Tất cả điều này khiến dòng thơ lục bát cách mạng bền bỉ qua các thời kỳ. Từ kháng chiến đến đổi mới, lục bát vẫn luôn hiện diện, chứng minh vai trò cổ vũ trong cách mạng và xây dựng đất nước.
Nhìn lại, lục bát không chỉ là một thể thơ truyền thống mà là “dòng chảy tinh thần” xuyên suốt các cuộc cách mạng dân tộc. Nó làm giàu thêm kho tàng văn hóa và nhắc nhở thế hệ sau về một thi pháp vừa dân gian vừa hiện đại, vừa chan chứa tình cảm vừa thấm đẫm lý tưởng.
Trong bối cảnh mới, khi đất nước xây dựng và hội nhập, việc tiếp tục nuôi dưỡng, sáng tạo với lục bát sẽ không chỉ là giữ gìn di sản mà còn là cách nối dài mạch sống của văn hóa dân tộc trong thế kỷ 21 bởi nhiều thách thức.
Thực tế cho thấy, số lượng tác giả trẻ làm thơ lục bát ngày càng có xu hướng ít đi. Hơn nữa, không ít bạn đọc trẻ ít kiên nhẫn với hình thức thơ truyền thống, trong khi lục bát cần “môi trường đọc” để thẩm thấu cái đẹp của nhịp điệu và hình ảnh. Nhiều tác giả trẻ cũng ngại đổi mới, sáng tác thơ lục bát dễ rơi vào sáo mòn, ước lệ. Lục bát vốn nhạc tính cao, nhưng nếu chỉ chú trọng vần điệu mà thiếu tư tưởng và trải nghiệm thì nội dung thơ dễ nhạt nhòa.
Theo tôi, để lục bát phát triển, rất cần khai thác kho tàng ca dao, dân ca, nhưng đưa vào cách nhìn và cảm xúc của con người hôm nay. Tiếp đó là cần mở rộng không gian biểu đạt để thơ lục bát đi vào đời sống đô thị, công nghệ, môi trường hội nhập... thay vì chỉ xoay quanh phong cảnh, tình quê. Cần thay đổi để đa dạng giọng điệu sao cho vẫn giữ chất trữ tình nhưng lột tả bình diện triết học, sử thi hoặc cả phản biện xã hội.
Tôi có một băn khoăn là nếu đưa thơ lục bát vào nhạc rap, MV, mạng xã hội để tạo sức lan tỏa với công chúng trẻ thì sức sống của nó sẽ vượt kỳ vọng. Tôi cho rằng, hội nhà văn các tỉnh, thành phố và ở Trung ương cần có chương trình, chiến lược khuyến khích sáng tác lục bát trong nhân dân, trong các trường đại học, câu lạc bộ thơ. Trao giải thưởng, tổ chức diễn đàn học thuật để trao đổi, phát triển thể thơ mang tinh hoa truyền thống của dân tộc.
Trải bao thế kỷ, lục bát đã chứng minh khả năng thích ứng và đổi mới không ngừng, trở thành “quốc hồn, quốc túy” của người Việt. Vấn đề hôm nay là làm thế nào để lục bát vừa giữ được căn cốt dân tộc vừa phản ánh được tinh thần thời đại. Chỉ khi đó, tiếng thơ 6-8 mới tiếp tục ngân vang trong lòng các thế hệ bạn đọc, như một minh chứng sống động cho sức mạnh của văn hóa Việt Nam.
VŨ VÂN