Mà nó “chướng” thiệt! Nó đã bạo dạn một mình cắt đứt cả mùa mưa dai dẳng để trời đất trở mình giao mùa, sẵn sàng đón chào mùa xuân ấm áp. Tôi không rõ tên gọi này có từ khi nào. Chỉ biết là khi tôi hiểu tận tường về nó thì tôi đã rời xa vùng quê thời thơ ấu để lập nghiệp phương xa. Rồi mỗi độ gần Tết, bất chợt đi đâu đó công tác qua vùng quê miền Tây, có cơn gió thổi lùa qua mặt se se lạnh lại bồi hồi nhớ lại mùa gió chướng năm nào với bao ký ức miên man...

Xứ dừa quê tôi, cứ thấy gió chướng về là biết mùa mưa dần chấm dứt. Tụi con nít chúng tôi thì đứa nào cũng thích giai đoạn giao mùa này, hay nói cho đúng hơn là thích cái sự “chướng” của mùa gió. Bởi lẽ, cả năm, miền Tây chỉ hai mùa mưa nắng. Nắng thì gay gắt, mưa thì dầm dề. Chỉ có đoạn giao mùa này, sợi nắng vàng vẫn rực rỡ mà lại mát dịu với những cơn gió se lạnh.

leftcenterrightdel

Những ngày hái bông so đũa mùa gió chướng trở thành ký ức khó phai. Ảnh: THÚY AN 

Hồi nhỏ có lần nghe má tôi nói, mùa gió chướng làm người lớn tuổi luôn thấy khó chịu trong người, xương khớp đau nhức dữ lắm, chứ tụi con nít thì lại mau lớn. Nghe má nói vậy, chứ chúng tôi thời đó, thích nhất là những buổi sáng, khi mặt trời đã nhô lên vẫn còn cố nằm quấn mền ấm áp lăn qua lăn lại trên giường, “nướng” thêm chút ít nữa, mới chịu ra đánh răng, rửa mặt. Những buổi sáng tinh sương, thảm cỏ non ven đường còn đọng sương tinh khiết; tôi và mấy đứa bạn khoác cặp sách cùng đi bộ đến trường.

Thời đó, đứa nào có được chiếc xe đạp đi học thì chắc ăn là con của một đại gia trong mắt chúng tôi. Chiếc áo học trò phong phanh đôi khi không cản được cái lạnh của gió lùa sáng sớm. Chúng tôi đứa nào cũng vừa đi vừa đút tay vào túi quần cho đỡ lạnh. Dù lạnh vậy, chứ cũng nói chuyện rôm rả cười vang suốt cả quãng đường đi.

Gắn liền với những cơn gió hiu hiu lạnh vào sáng sớm là những chùm bông so đũa màu trắng như bông tuyết trong sách giáo khoa. Có lẽ đó là hình ảnh đặc trưng mà tụi con nít chúng tôi nhớ nhất mỗi khi mùa gió chướng về. Những ngày nghỉ học mà sáng nghe tiếng má kêu cha lấy cây sào ra bờ kinh hái bông so đũa. Thì kiểu gì, tôi cũng bất chấp cái lạnh mà bật dậy, chạy theo cha ra chiếc xuồng ba lá cũ kỹ bơi ra ngoài bờ kinh. Những hàng so đũa thân cao và thẳng, trái dài thon thả, đều đặn giống như những chiếc đũa xếp song song, treo lủng lẳng trên cành. Từng chùm bông so đũa trắng muốt vừa hé nở còn đọng sương long lanh.

Cha tôi dùng cây sào hái cả những nụ hoa chưa nở, chỉ cần ít phút là đầy cả rổ to. Còn tôi thì rất thích lặt những bông chớm nở để thưởng thức cái vị ngọt ngọt trong cái bầu của đài hoa. Nó hấp dẫn và ngọt không thể tả! Mộc mạc vậy thôi nhưng tôi và những con người lớn lên trên vùng đất này đã cảm nhận được từ cái nhỏ nhoi ấy để mà thương mà nhớ. Có lẽ, cái nỗi nhớ ấy đã hằn sâu trong ký ức về quê hương xứ sở, về những loại hoa báo hiệu mùa gió chướng về.

Hôm nào sáng sớm đi hái bông so đũa với cha thì chắc chắn rằng, cha tôi sẽ dẫn tôi đi tới mấy hầm bắt cá. Cha tôi nói, mùa gió này báo cho mấy con cá biết rằng mùa khô sắp đến, cá trên đồng sẽ “lóc” đến nơi có nước sâu hơn. Nắm được điểm này mà cha tôi dựa vào các bờ mẫu ruộng, chọn vị trí cá có thể lóc, lội xuống ao đìa để đào hầm “bẫy” cá. Cha tôi thường đào và chôn cả một cái khạp nhỏ xuống hầm sau đó dùng sình ngụy trang lại miệng khạp; đến khuya cá sẽ bắt đầu tìm đường đi theo mùi sình và hơi nước chúng sẽ hướng đến và lọt vào hầm. Có bữa cha tôi đốt đèn thăm hầm lúc nửa đêm, cũng có bữa đợi đến sáng sớm.

Nhờ mấy con cá lọt hầm đó và những chùm bông so đũa đã đưa gia đình tôi qua những năm tháng khó khăn. Nhắc đến món ăn trong đất trời se lạnh của miền Tây từ cá lọt bẫy hầm, tôi không thể không nói đến món canh chua cơm mẻ nấu cá trê trắng với bông so đũa. Vị ngọt, dai, chắc thịt của cá trê, vị thơm dịu của bông so đũa, vị chua của cơm mẻ,... tất cả đã hòa quyện dưới bàn tay khéo léo của má tôi trở thành một tô canh chua có thể chinh phục những người khó tính nhất. Riêng đối với tôi đây là món ăn ngon nhất mà sau này tôi không thể tìm được ở bất kỳ nhà hàng nào hay có thể dùng tiền mua được! Nó không đơn giản là bữa cơm nhà mà còn là sợi dây gắn kết tình thân gia đình.

Giữa đồng ruộng mênh mông, những đêm gió chướng thổi lồng lộng mát mẻ, cha mắc võng ra sân nằm kể tôi nghe về vùng đất, nơi đây chịu lắm nỗi đau thương nhưng rất anh hùng. Những cái ao, cái đìa có hình thù kỳ quái hay những vết thương loang lổ trên thân dừa... là vết tích do bão đạn, mưa bom của quân thù gây nên. Nhưng dáng đứng của những cây dừa-chứng nhân lịch sử ấy vẫn sừng sững, hiên ngang và vươn cao cùng năm tháng. Cha hay dặn đi dặn lại tôi phải cố gắng học hành, sau này có nghề nghiệp ổn định cho tương lai đỡ vất vả hơn thời cha má. Tôi đã được nuôi dưỡng ý chí từ những đêm gió chướng như vậy, để tới bây giờ dù có gặp khó khăn nào trong cuộc sống, tôi vẫn kiên quyết không bỏ cuộc!

Mỗi mùa gió chướng đi qua, tụi con nít chúng tôi lại lớn thêm một chút. Đi xa quê bao năm lập nghiệp tôi cũng ít dần về thăm nơi chôn nhau cắt rốn. Luôn còn đó trong tôi... cơn gió miên man, tên “chướng” nhưng cũng lắm nỗi “xuôi lòng”!

Bút ký của VÕ THÀNH NHÂN