Bõ thật, An không xuống tóc, không mặc áo tràng, lại còn phì phèo thuốc lá. Tôi bảo An, sao ông lại lánh sự đời sớm thế? An bảo, nào tôi có lánh. Ở đây ai cấm tôi làm việc đời. An nói và nhìn tôi, vẫn cái nhìn chất phác và hiền lành, tự tin nhưng có gì đó như là nhẫn nhịn. Ngày xưa, còn trẻ, An đã có cái nhìn ấy. Bây giờ vẫn thế.

* 

Chúng tôi là bạn, nhập ngũ cùng đợt. Ngày lên đường An đã có người yêu, là cô Kim xinh nhất làng, tặng chiếc khăn thêu đôi bồ câu châu mỏ vào nhau. Hai đứa cùng xe đón lính mới nhưng đến bãi tiếp nhận, An đi một nơi, tôi về một hướng. Sau sáu tháng huấn luyện, tôi mới biết, An được chọn vào đơn vị công binh. Thời chiến tranh phá hoại, công binh lúc nào cũng nhiều việc. Vì thế, xong khóa huấn luyện chiến sĩ mới, An đã theo đơn vị vào Trường Sơn làm đường. Nửa năm sau, đúng là trời định, đơn vị chúng tôi hành quân vào Nam, dừng nghỉ lại ở Binh trạm 12 bên dòng Sêrêpôk, đang tắm, có người réo, Hà làng Vằng có phải không? Cứ nguyên bộ quần áo ướt, tôi ôm chầm lấy An làm cậu ta cũng ướt đầm ướt đìa. Được một đêm ngồi với nhau, chia nhau bao thuốc lá Tam Đảo và ít lương khô, ruốc mặn, rồi lại mỗi thằng một hướng.

Nơi các nhánh đường Trường Sơn mở qua, thường là vùng không dân. Nhưng cũng có đôi chỗ, ở lưng núi heo hút, nhô lên một hoặc vài nóc nhà cô độc. Họ sống thế nào ở đó, khi không có chòm xóm, hoàn toàn là bí mật với lính mở đường. Chỉ biết họ đang ở đó, như cây rừng bám vào đất, cứ thế mà tồn tại.  

Một chiều, đơn vị của An đang san lấp hố bom để thông xe thì máy bay lại đến giội bom xuống đoạn phía trước và cả mấy ngôi nhà tận ven núi xa. Chỉ thấy khói từ ngôi nhà bốc lên, không nghe thấy tiếng người. An chợt nghĩ, những người ở ngôi nhà ven núi xa kia có bị làm sao? Sống hay chết? Ai cứu họ? Tiểu đội trưởng An nói với anh em, tiếp tục lấp hố bom, để anh chạy lên chòm bản vừa bị giội bom xem dân tình ở đó ra sao.

Chòm nhà cô đơn nhìn thì gần, nhưng phải qua mấy suối, mấy dốc mới tới. Trời ơi, nếu An không lên ngôi nhà này thì tai họa lớn. Bên cạnh mái nhà cháy lửa đã lụi, có một người đàn bà nằm co gập người lại, như cố che chở đứa bé nằm ôm lấy chân người mẹ. Bà mẹ đã tắt thở, trong khi bé gái chừng như khóc hết nước mắt, chỉ thở khò khè, mắt trắng dã, hoảng sợ.

An mai táng bà mẹ vô tội, rồi ẵm đứa bé ngồi chờ xem có người về ngôi nhà này không. Chờ mãi, đến tối nhọ mặt không thấy ai, An viết vội một dòng lên trang giấy nhỏ: “Tôi đón cháu về đơn vị Công binh 32. Nếu người nhà về, xuống đơn vị nhận cháu. An, hòm thư 032110”, rồi buộc chặt trong túi ni lông phòng mưa gió, treo lên cành cây cạnh ngôi mộ mới.

Cả tuần nuôi cháu ở đơn vị, không có ai đến nhận.

Bấy giờ dọc các binh trạm Trường Sơn và đơn vị đồn trú bảo đảm xăng dầu, kho bãi không hiếm trẻ con. Những đứa bé do các cô thanh niên xung phong, giữ kho, trạm bơm xăng, giao liên nhỡ nhàng sinh ra. Cũng có những đứa trẻ vùng hậu địch, bố mẹ hy sinh, cơ sở tìm cách gửi chúng theo đường giao liên ra Bắc, cho hưởng chính sách con liệt sĩ, nuôi dưỡng ăn học.

Những em bé chuyển theo đường giao liên thường rất lâu mới qua hết con đường bom đạn này. Bé đến được tay các cô thanh niên xung phong, thường bị giữ lại vài ba hôm, để các cô trang bị thêm quần, áo, đường sữa và chơi với bé cho đã cơn thèm trẻ mới chuyển giao cho đơn vị khác bế đi tiếp. Có bé bị ẵm đi, ẵm lại mấy lần trên một cung đường.

Bé gái An ẵm về thuộc diện sẽ gửi giao liên cho ra Bắc, sau khi làm thủ tục ở binh trạm. Do cháu còn yếu, bị sốt, lại sợ người lạ, nên An giữ lại đơn vị, chăm sóc cho cháu khỏe, rồi mới gửi đi.

Tính là vậy, nhưng một sáng, An gửi lại bé cho tổ nuôi quân, đi phá bom nổ chậm. Phá đến quả thứ ba, không may một trái bom bi tròn như quả bóng tennis lăn từ trên vách ta luy xuống, nổ ngay dưới chân anh. May có hố, An lao đầu xuống kịp, chỉ một bên chân còn chới với, cắt mất nửa bàn chân. An nổi tiếng phá bom mở đường bị loại khỏi vòng chiến đấu chỉ sau một tiếng nổ của bom bi.

Trên cáng về trạm xá, An ôm theo bé gái. Từ trạm xá ra đi, bé gái được thay lý lịch lần nữa, là con của chính An với cô gái dân tộc đã mất vì bom đạn. Cháu bé An ẵm qua các đơn vị dọc đường Trường Sơn, nhận được sự chăm sóc của rất nhiều người, đặc biệt là các cô bộ đội và thanh niên xung phong. An phải tha lôi theo đến hai ba lô đường sữa, quần áo các cô, các anh gửi cho cháu. Đến ngày An làm giấy phục viên với thương binh hạng 2/4, về quê, cháu bé đã năm tuổi.

leftcenterrightdel
Minh họa: KHOA AN 

An về nhà, dắt theo bé gái, mắt tròn xoe, má phúng phính, tóc buộc hai bên xinh xinh nhảy nhót bên má, rối rít gọi An là ba, cả làng ngỡ ngàng. Người bị choáng là cô Kim. Cô đã chờ An mấy năm trời, nhiều chàng chạm ngõ đều bị cô từ chối, thế mà ngờ đâu...

An kể lại chuyện bé gái, có sao nói vậy nhưng Kim không tin. Kim bảo, anh không phải nhiều lời, nhìn mắt con bé là em biết con ai, chả khác mắt anh tí nào. Giỏ nhà ai, quai nhà ấy.

An nói thế nào Kim cũng không chấp nhận. An một mình nuôi con. Chị gái đi lấy chồng, An dọn căn nhà cũ bố mẹ để lại để hai bố con ở. Tiếng bé gọi bố líu lo suốt ngày, căn nhà cũng đỡ trống vắng. Có chút tiền phụ cấp thương tật, trồng thêm rau củ ở vườn, nuôi đàn gà, cuộc sống hai bố con cũng tạm ổn.

Một đêm, con bé bỗng khóc thét lên, gọi mẹ, không chịu để bố An ru ngủ. Thôi chết, đầu con nóng như hòn than. An ẵm con đưa vội lên trạm xá xã. Trạm xá cho uống viên giảm sốt, bé vẫn nóng bỏng, lại run như sốt rét, dỗ thế nào bé vẫn khóc đòi mẹ. Hoảng quá, An ẵm con chạy về nhà Kim, cầu cứu, nhờ Kim ôm lấy cháu để cháu có hơi ấm của mẹ. Kim đưa tay đón, nhưng bé lại ôm chặt lấy cổ ba An đòi về nhà... An ẵm con quay lui, Kim nói theo, em đã bảo rồi, anh trả con cho người ta.

Về đến nhà, thì viên thuốc hạ sốt mới có tác dụng. Con bé giảm sốt thì ngủ yên. An ẵm con ngồi tựa tường suốt đêm, nước mắt chảy lăn trên má.

Chỉ sau tối An tìm đến nhà nhờ dỗ bé con hai tuần, Kim đi lấy chồng, là anh chàng bán quán giàu có trên phố huyện.

Hôm cưới Kim, An cũng chống nạng gỗ, dắt con đến chúc mừng. Quà mừng ngoài cái phong bì nhỏ, còn có gói hiện vật là kỷ niệm của hai người từ xưa. Dù buồn, nhưng An cũng phải cứng rắn chấp nhận, và được an ủi bởi đứa bé anh nuôi khôn lớn dần, ngoan ngoãn, đã vào lớp mẫu giáo lớn. 

Kim đi lấy chồng cũng chỉ hạnh phúc được một đêm động phòng, khi những phong bì và gói quà mừng cưới chưa được mở ra. Hôm sau hai vợ chồng mở quà cưới, chiếc khăn thêu hai con chim bồ câu An gửi trả lại, lộ ra, anh chồng vồ lấy, mặt lạnh băng, hỏi, cái gì thế này?

Kim giải thích chuyện cái khăn. Anh chồng nghe xong, nói cộc lốc, ra tôi chỉ là con bò nhai lại của cái thằng trai gái lẳng lơ phải nuôi con một mình.

Kim nghĩ, rồi chồng sẽ hiểu. Nhưng càng ngày chồng càng cố không hiểu, vẫn chấp nhặt chuyện cũ. Chuyện bé xé ra to, có đêm Kim bị chồng đánh, đuổi ra khỏi nhà. Kim chạy đến nhà An khóc lóc. An hỏi ra nhẽ, rồi đến thẳng nhà chồng Kim chỉ nạng vào mặt gã, bảo: Anh bỏ cái thói vũ phu đi. Chúng tôi thời ấy đến tay cũng không dám cầm. Anh mà còn làm khổ cô ấy vì chuyện không đâu, tôi thương binh thật, vẫn còn đủ sức phang cái nạng này vào mặt anh.

An về, chồng Kim càng nổi đóa, giận thớt chém cá, bao nhiêu uất ức đổ lên đầu vợ.

Con gái lên lớp một. Sáng sáng An chống nạng dẫn con đi qua đường làng rơm rạ vương đầy, nhận được bao nhiêu cái nhìn thiện cảm của người làng. Một vài cô thấy hoàn cảnh của An cũng ngấm ngầm giúp đỡ, khi cho cháu tấm áo, khi mang tận nhà tặng An chục trứng gà, nải chuối tiêu cho hai bố con bồi dưỡng. Thường An từ chối khéo để không nhận quà và cả những lời ý tứ bày tỏ.

Con bé học được một học kỳ, thì có người đàn ông luống tuổi, da dẻ mỡ màng, tự lái chiếc xe ô tô con đến tìm An nhận mình là bố đẻ con bé. Năm 1973, chuẩn bị cho đánh địch lấn chiếm vùng giải phóng, Đại đội Kpa Klơng của ông sáp nhập với đơn vị khác, để thành một tiểu đoàn bộ binh của tỉnh. Trước ngày sáp nhập, ông được nghỉ phép mấy ngày vội chạy bổ về nhà. Đứng ở đầu núi, chân muốn khụy xuống vì chòm nhà đã cháy từ khi nào không biết. Ông tìm thấy ngôi mộ ở khu nhà cháy... Người khách đặt ra trước mặt An mảnh giấy gần năm năm trước anh đã viết.

Người đàn ông nói tiếp. Sau chiến tranh tôi về tỉnh công tác, không đi bước nữa. Mới rồi sau khi làm giỗ bỏ mả cho cô ấy, tôi mới đi tìm cháu theo địa chỉ của anh để lại. Tìm nửa năm thì gặp được anh.

An vuốt mảnh giấy để trên bàn rồi làm cơm mời khách, để hai người có dịp ngồi hàn huyên chuyện xưa, chuyện nay. Sau bữa cơm, An gọi con đến bên, bảo, đây mới là ba con. Ba chỉ là ba nuôi. Bây giờ con đi theo ba về quê nhé. Đứa bé không biết chuyện rắc rối của người lớn, cứ ôm lấy An mà khóc, một mực con không đi đâu...

An nói người đàn ông đừng vội, để tôi nói dần cho cháu hiểu. Tôi cũng muốn con phải về với bố. Bao giờ cháu hiểu chuyện hơn, tôi dẫn cháu về với ông. Việc của tôi là cứu người, nay việc cứu đã xong, tôi lấy đó làm vui.  

Con bé học hết lớp một thì An dẫn về Gia Lai với bố đẻ. Sau chuyến đi, An về quê, người như mất hồn, ngồi một chỗ, đến bữa cơm cũng không muốn thổi, ăn qua ăn quýt củ khoai, củ sắn cho xong. Căn nhà cũ năm gian trống trải, đêm nằm chỉ nghe cọt kẹt tiếng mọt. 

Một tối, cô Kim tìm đến An, bày tỏ, em không hiểu anh, em làm khổ anh. Anh cho em chuộc lỗi. Em sẽ bỏ chồng, xin quay lại với anh.    

Nghe Kim nói, lòng An cũng se sắt. An châm ngọn đèn tọa đăng ít khi dùng đến, đặt trên ban thờ. Nhìn đôi mắt sưng đỏ của Kim, An thương tình, nhưng vẫn khuyên, em đừng bỏ chồng. Anh ấy có đối xử chưa tốt với em, thì em lựa lời nói dần để anh ấy hiểu.

An rút tay ra khỏi tay Kim. Vào hoàn cảnh của anh được một người thương thì còn đòi hỏi gì. Ai thương anh cũng mừng nhưng người đó không phải là em.

Kim òa khóc, ôm mặt chạy nhanh ra khỏi cửa nhà An.

Sau đận đó, An lên chùa làng làm bõ.

* 

Theo chân An tưới hoa, chúng tôi đi lòng vòng trên sân chùa, vừa đi vừa nói chuyện. Mới sáng chùa còn vắng phật tử thăm viếng nên chúng tôi cứ nhởn nha, chẳng đi đâu mà vội. Tôi nói thật với An, tôi cứ nghĩ, ông là người thiệt thòi nhiều quá, cả đời lận đận. An cười bảo, ai bảo tôi thiệt. Tôi giàu thì có. Sư thầy có lần về chùa làng giảng lời cảnh giới cho phật tử, rằng người cho đi mới là người giàu. Của cho là của còn mãi với mình.

Truyện ngắn của HÀ ĐÌNH CẨN