Ngay từ khi xuất hiện, tân nhạc Việt đã thể hiện rất rõ bản sắc Việt trong giai điệu của mình. Bản sắc được thể hiện bằng hai cách. Một là giai điệu nằm trong điệu thức phương Tây nhưng được viết ra từ tâm hồn Việt. Hai là giai điệu tiến hành theo điệu thức phương Đông tràn ngập âm hưởng Việt. Với hành trang ấy, các nhạc sĩ lên đường cùng toàn dân kháng chiến trường kỳ.

Phải nói là ý thức tạo ra giai điệu riêng Việt Nam đã bắt đầu rõ hơn từ sau khi “Đề cương về văn hóa Việt Nam” do đồng chí Trường Chinh soạn thảo với tiêu chí “dân tộc, khoa học, đại chúng” năm 1943. Đến khi nước nhà giành độc lập và bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thì ý thức này rất được hưởng ứng.

Các nhạc sĩ như Lê Lôi có “Đóng nhanh lúa tốt” (thơ Huyền Tâm); Tô Vũ có “Cấy chiêm” (thơ Quách Vinh) và Đỗ Nhuận thì có cả ca cảnh “Sóng cả không ngã tay chèo” viết về nữ anh hùng Nguyễn Thị Chiên. Nhưng dù giai điệu đậm chất Việt thì các tác phẩm ấy vẫn chỉ mang âm hưởng dân ca của người Kinh. 

Nhạc sĩ Văn Chung lần đầu tiên sử dụng chất liệu dân ca người Tày-Nùng trong “Pi noọng ơi”. Chỉ đến khi đại quân ta tiến vào Tây Bắc, chìm đắm trong mỏ dân ca các dân tộc Tây Bắc, các nhạc sĩ mới bừng ngộ rằng đây chính là kho tàng vô tận cho sự phát triển không ngừng của âm nhạc Việt. Và cùng với trận Điện Biên Phủ của cả dân tộc, các nhạc sĩ Việt cũng bắt đầu khởi sự một trận Điện Biên Phủ của mình trên đường chinh phục những đỉnh cao âm nhạc. Cũng như trận Điện Biên Phủ của cả dân tộc có các chiến dịch phụ như ở Tây Nguyên, Nam Bộ, trận Điện Biên Phủ của âm nhạc Việt cũng được các nhạc sĩ "chia lửa" ở Tây Nguyên, Nam Bộ. 

leftcenterrightdel

Nhận được tin giải phóng Điện Biên, dân công miền núi Tây Bắc đã ca hát, nhảy múa ngay trên đường để mừng Chiến thắng Điện Biên Phủ. Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia III 

Có thể nhìn thấy rõ trận Điện Biên Phủ trong âm nhạc Việt qua các sáng tác của một tác giả tiêu biểu, đó là nhạc sĩ Đỗ Nhuận. Khi bắt đầu vào Tây Bắc, ông đã lập một kỳ tích là tạo ra hành khúc “Hành quân xa” ngắn gọn, mang đậm bản sắc Việt, nhưng dù sao vẫn là âm hưởng dân ca dân tộc Kinh. Đến khi ta đánh đồi Him Lam mở màn Chiến dịch Điện Biên Phủ thì Đỗ Nhuận lại tiếp tục có thêm hành khúc “Trên đồi Him Lam”. Ở hành khúc này, nhìn thấy người lính từ các tỉnh miền Bắc đều có mặt trên chiến hào nên ông đã trộn trong giai điệu của mình âm hưởng dân ca Đồng bằng Bắc Bộ với âm hưởng dân ca xứ Nghệ. Nhưng vẫn chỉ là dân ca của người Kinh.

Tuy nhiên, chính từ thời điểm này, nhạc sĩ Đỗ Nhuận bắt đầu chìm đắm trong dân ca các dân tộc Tây Bắc mà chủ yếu là Thái, Mông. Ca cảnh “Anh Pan về bản” là nhạc phẩm Việt đầu tiên mang âm hưởng dân ca Tây Bắc. Mỏ âm thanh quý giá này còn cho Đỗ Nhuận có đủ công lực để tạo ra bản opera “Cô Sao” sau 10 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ của dân tộc.

Đến khi Điện Biên giành được chiến thắng chấn động địa cầu ngày 7-5-1954 thì nhạc sĩ Đỗ Nhuận tạo ra hành khúc “Chiến thắng Điện Biên” mà ở đó, trong giai điệu nức lòng người này, tác giả đã trộn dân ca Thái-Mông với dân ca Đồng bằng Bắc Bộ, cụ thể là giai điệu chèo trong điệu “Sắp qua cầu” vô cùng tự nhiên, tuyệt không dấu vết của lắp ghép: Súng đại bác quấn lá ngụy trang/ Từng đàn bươm bướm trắng dỡn lá ngụy trang thì rất Thái-Mông, nhưng đến câu tiếp theo: Xiết bao sướng vui từ ngày lên Tây Bắc/ Đồng bào náo nức mong đón ta trở về thì đích thị “Sắp qua cầu”. Thật tài tình. Sự tài tình của một tầm vóc lớn. 

Và sau Đỗ Nhuận, nhiều nhạc sĩ đã khai thác mỏ âm thanh này như Đặng Đình Hưng với “Chiến thắng Tây Bắc”; Lê Lan với “Chị Mai đi chợ”, “Sao cô em chưa về”; Nguyên Nhung với “Chiếc đàn môi”, “Từ trên đỉnh núi”; Nguyễn Đức Toàn với “Nỗi băn khoăn của chị Lả”; Doãn Nho với “Chiếc khăn rơi” (Chiếc khăn Piêu)... Hoàng Vân tuy chưa có giai điệu mang âm hưởng Tây Bắc nhưng lại có một điệu hò mới từ Chiến dịch Điện Biên Phủ là “Hò kéo pháo” và 10 năm sau có “Nổi trống lên rừng núi ơi!”...

Ở Tây Nguyên, cùng những chiến sĩ dấn thân trên chiến trường, các nhạc sĩ đã chìm đắm trong mỏ dân ca Tây Nguyên mà người đắc đạo nhất là nhạc sĩ Nhật Lai. Ông đã có những “Đợi chờ”, “Tiếng hát M'nông Tib'ri”, “Tiếng cồng đêm ngừng chiến”; và đến khi tập kết ra Hà Nội sau Hiệp định Geneva, ở Đoàn Văn công Tây Nguyên, ông tiếp tục khai thác mạch nguồn mỏ quý này với “Chim lạc đàn”, “Chim Pông Kơle”... để rồi lan tỏa ra trong bản opera “Bên bờ Krông pa” thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Cùng với Nhật Lai là Trương Quang Lục với “Tiến quân lên Tây Nguyên”; Trương Đình Quang với “Tiến lên Lăk”; Thái Hào Quyên với “Kon Tum giải phóng”, Đức Tùng với “Tây Nguyên hành khúc”; “Em Yuk”...

Âm hưởng Tây Nguyên và âm hưởng Tây Bắc còn mang đến cho các nhạc sĩ sau ngày hòa bình một hứng khởi mới trong sáng tạo âm nhạc như Trần Quý với “Hát mừng Anh hùng Núp”; Văn Ký với “Tây Nguyên bất khuất”... 

Nhiều người lại tìm sang mỏ dân ca Việt Bắc như Nguyễn Tài Tuệ với “Lời ca gửi noọng”, “Suối Mường Hum còn chảy mãi” và đỉnh cao là “Tiếng hát giữa rừng Pắc Bó”. Nguyễn Xuân Khoát với “Ngắm chim bay trên dãy Phja Bjooc”, Hồng Đăng với “Mây trắng Phia Khao”... Đỗ Nhuận sau khi khai thác hết tài nguyên dân ca Tây Bắc làm hành trang cho mình lại tiếp tục khai thác hết tài nguyên dân ca Tây Nguyên để có được “Tứ tấu Tây Nguyên” viết cho đàn dây, opera “Người tạc tượng”... 

leftcenterrightdel
Tái hiện hình ảnh bộ đội kéo pháo vào trận địa tại Lễ khai mạc Năm Du lịch Quốc gia-Điện Biên và Lễ hội Hoa ban 2024. Ảnh: TUẤN HUY 

Từ trận Điện Biên Phủ trong âm nhạc Việt, các nhạc sĩ đã tạo ra âm nhạc thời chống Pháp, chống Mỹ đa sắc khiến thế giới phải nhìn vào mà ngưỡng mộ. Từ giai điệu nhạc múa sạp, múa chàm rông đến những bài hát độc đáo như: “Người Châu Yên em bắn máy bay” của Trọng Loan; “Bài ca trên đỉnh núi” của Nguyễn Văn Thương... đến những tác phẩm khí nhạc như “Rhapsody chim ưng” của Đàm Linh; “Thắng lợi của tình yêu Tổ quốc” của Nguyễn Đình Tấn; giao hưởng “Đồng khởi” của Nguyễn Văn Thương... 

Trận Điện Biên Phủ trong âm nhạc Việt Nam vẫn tiếp tục chinh phục những đỉnh cao mới bằng tinh thần chiến thắng của trận Điện Biên Phủ lịch sử năm xưa trong thời thanh bình. Nếu thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngoài những tác phẩm kể trên lan truyền trong các nước xã hội chủ nghĩa và những tác phẩm khí nhạc của nhạc sĩ Nguyễn Thiện Đạo-người Pháp gốc Việt như: “Thành đồng Tổ quốc”, “Phù Đổng”... đoạt giải thưởng trong các festival âm nhạc quốc tế; thì thời bình, một cột mốc lịch sử đã được các nghệ sĩ biểu diễn cắm trước, đấy chính là sự kiện nghệ sĩ piano Đặng Thái Sơn đoạt giải nhất trong cuộc thi piano quốc tế Frédéric Chopin lần thứ X vào mùa thu năm 1980. Sau đó vài năm và thập kỷ cuối thế kỷ 20 cũng như thập kỷ đầu thế kỷ 21, nhiều nhạc sĩ đã lặng lẽ tạo nên các đỉnh cao của mình trong việc hòa nhập với thế giới. 

Bắt đầu từ “Rhapsody Việt Nam” của Đỗ Hồng Quân đậm đặc âm hưởng các dân tộc Việt Nam vang lên đĩnh đạc ở Moscow (Nga) đến những bản giao hưởng của Lương Minh, Kim Ngọc trong cuộc thi âm nhạc của các nhạc sĩ trẻ thế giới và tiếp tục là việc các tác phẩm khí nhạc Việt Nam được các dàn nhạc nước ngoài trình diễn và trao giải thưởng như: Giao hưởng thơ “Trở về với Điện Biên” của Trần Trọng Hùng ở Biennal Music Berlin 1996, rồi đến những tác phẩm khí nhạc của Đỗ Hồng Quân mà tiêu biểu là bản giao hưởng "Trổ một” đã được vang lên tại Moscow và xuất bản tại nhiều nước trên thế giới; “Ngày hội” của Đặng Hữu Phúc, “Ký ức Đồng Khởi” của Võ Đăng Tín, “Chênh vênh” của Ngọc Đại...

Thế hệ nhạc sĩ trẻ như Vũ Nhật Tân, Trần Mạnh Hùng, Kim Ngọc, Việt Anh... đã làm rạng danh Việt Nam trên thế giới bằng những tác phẩm khí nhạc của mình sánh vai cùng các thế hệ cha anh. 

Từ trận Điện Biên Phủ lịch sử của dân tộc làm chấn động địa cầu, có trận Điện Biên Phủ của âm nhạc Việt đã kéo dài từ đó đến nay, vẫn tiếp tục tạo ra những đỉnh cao mới hòa nhập cùng âm nhạc thế giới. 

Nhạc sĩ NGUYỄN THỤY KHA