VHKN là toàn bộ những giá trị niềm tin và cách ứng xử hình thành nên tinh thần của người mở lối. Đó là sự can đảm thử cái chưa ai thử, chấp nhận thất bại, coi tri thức là tài sản, coi khách hàng là trọng tâm và đặt trách nhiệm xã hội là mục tiêu cao nhất.
VHKN ở Việt Nam đã manh nha từ lâu, gắn với sự phát triển của con người, xã hội; với nền sản xuất nông nghiệp lúa nước và mang tinh thần tự lực, nhưng quy mô nhỏ, ít sáng tạo. Ở mỗi thời điểm khác nhau, con người trong xã hội có tư duy khởi nghiệp khác nhau và từ đó góp phần hình thành, bồi đắp VHKN. Từ làng nghề truyền thống, thương nhân phố cổ, nông dân sáng tạo từ chiếc bừa đến máy sấy, tất cả đều mang chất khởi nghiệp. Nhưng phong trào hiện đại chỉ thực sự tăng tốc mạnh mẽ từ khoảng năm 2015 trở lại đây, khi Chính phủ chủ trương thúc đẩy hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, các quỹ đầu tư xuất hiện nhiều hơn, trường đại học mở các không gian sáng chế, và tinh thần lập nghiệp lan rộng trong giới trẻ.
Bây giờ, có thể đọc thấy nhịp đập của VHKN ở nhiều tầng nấc. Thành phố lớn trở thành “vườn ươm” của các công ty công nghệ; vùng nông thôn xuất hiện doanh nghiệp trẻ làm nông nghiệp sạch theo chuẩn quốc tế; những nhóm học sinh phổ thông thử nghiệm mô hình robot; người Mông, người Dao bán sản phẩm bản địa lên sàn thương mại điện tử. Đây là sự chuyển động vừa âm thầm, vừa mạnh mẽ, giống như mạch nước ngầm tích tụ lâu ngày rồi bất chợt phun lên thành suối.
VHKN ở Việt Nam hiện nay có 3 sắc thái đáng chú ý. Thứ nhất, tinh thần dấn thân. Nhiều bạn trẻ không xem thất bại là dấu chấm hết mà là bài học phải trải qua. Thứ hai, khát vọng vươn ra thế giới, không chỉ làm đủ sống mà làm để góp mặt vào bản đồ tri thức chung. Thứ ba là trách nhiệm cộng đồng: Ngày càng nhiều dự án ra đời không phải để săn lợi nhuận nhanh mà để giải quyết bài toán xã hội, như giao thông, rác thải, giáo dục, nông nghiệp, sự bền vững.
Tuy nhiên, VHKN chưa khởi sắc, chưa phát triển, lan tỏa mạnh mẽ trong xã hội, thậm chí có lúc trầm lắng, thiếu sức sống là vì vấp phải nhiều vấn đề ở nhiều phía. Đó là những rào cản từ tư duy, nhận thức, cơ chế, chiến lược, thái độ làm việc kỷ luật, minh bạch trong quản trị, khả năng hợp tác dài hạn...
Có một thực tế là dư địa phát triển dựa trên các động lực truyền thống như lao động giá rẻ, khai thác tài nguyên thiên nhiên hay đầu tư dàn trải đã đạt đến giới hạn. Nếu Việt Nam muốn đạt được mục tiêu trở thành nước phát triển có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045, với tỷ trọng kinh tế số chiếm khoảng 30% tổng sảm phẩm trong nước (GDP) thì không thể đi theo con đường cũ.
Con đường duy nhất và tất yếu để tạo ra động lực tăng trưởng mới, bứt phá và vượt qua bẫy thu nhập trung bình chính là dựa trên khoa học và công nghệ (KH-CN) và đổi mới sáng tạo (ĐMST). Kinh nghiệm quốc tế đã chứng minh, chỉ có ĐMST mới giúp nâng cao năng suất lao động, tăng sức cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững với tốc độ cao.
Tuy nhiên, ĐMST không chỉ là việc của Chính phủ, bộ, ngành, hay các viện nghiên cứu mà phải lan tỏa văn hóa “Khởi nghiệp sáng tạo toàn dân” bởi hai vấn đề ý nghĩa chiến lược.
Kích hoạt nội lực quốc gia, khơi nguồn tài nguyên trí tuệ để tạo ra năng lực sáng tạo của người Việt. Hiện nay nguồn tài nguyên quý giá này của Việt Nam luôn thuộc nhóm tốp 10 thế giới theo xếp hạng chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII). VHKN toàn dân chính là cách Việt Nam huy động mọi tầng lớp trong xã hội tham gia vào quá trình phát triển kinh tế số, biến mỗi cá nhân thành một chủ thể của phát triển.
Chuyển đổi tư duy, chấp nhận rủi ro: Lâu nay xã hội luôn cho rằng đã khởi nghiệp thì phải thành công nên gây ra áp lực và rào cản. Thực tế cho thấy, khởi nghiệp và ĐMST gắn liền với thử nghiệm, có rủi ro và có thể thất bại. Nếu xã hội vẫn giữ tư duy sợ thất bại, e ngại rủi ro, chúng ta sẽ không thể có những bước nhảy vọt. Việc lan tỏa văn hóa này nhằm mục đích chuyển đổi nhận thức từ “rủi ro” sang “cơ hội”, khuyến khích sự mạnh dạn thử nghiệm, sáng tạo, tạo tiền đề cho sự hình thành một lực lượng sản xuất mới, linh hoạt và hiện đại trong kỷ nguyên số.
    |
 |
Biểu tượng chương trình TECHFEST Việt Nam với tinh thần “Khởi nghiệp sáng tạo toàn dân - Động lực tăng trưởng mới”.
Ảnh: ĐỨC HUY
|
Khi nhìn vào các sản phẩm như máy gặt đập liên hợp xay xát gạo cơ khí, máy gieo hạt của các nông dân Việt Nam thì thấy tính ứng dụng thực tiễn cực cao, giúp chuyên nghiệp hóa sản xuất nông nghiệp, thậm chí còn được xuất khẩu và đánh giá cao trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên những sản phẩm ấy vẫn chỉ quanh quẩn rất hạn chế trong thị trường nước nhà, chưa thể đi xa. Chính vì vậy, chúng ta cần có chính sách vượt trội để khai thác tiềm năng của những nhà sáng tạo này.
Hiện nay, mô hình “doanh nghiệp một người” (One-person Enterprise) phát triển rất mạnh ở nhiều quốc gia và được xem là xu hướng tất yếu trong kỷ nguyên số. Nhờ sự bùng nổ của trí tuệ nhân tạo (AI), tự động hóa và các nền tảng số, một cá nhân ngày nay có thể vận hành trọn vẹn một doanh nghiệp từ tài chính, marketing đến bán hàng và chăm sóc khách hàng. Mô hình này đang trở thành lực đẩy mới của nền kinh tế số vì: Chi phí thấp bởi không cần văn phòng hay đội ngũ nhân sự lớn; hoạt động linh hoạt và tự chủ về thời gian và thu nhập; huy động được toàn dân tham gia và được coi là giải pháp đột phá để hiện thực hóa Chiến lược quốc gia khởi nghiệp sáng tạo, kích hoạt hàng triệu mô hình kinh doanh siêu nhỏ, tạo ra một đội ngũ doanh nhân đông đảo dựa trên KH-CN.
VHKN toàn dân chính là tạo điều kiện để mỗi người dân, kể cả người nông dân hay “doanh nghiệp một người”, đều có thể trở thành chủ thể của phát triển. Để có VHKN lan tỏa, phát triển mạnh mẽ, một trong những vấn đề cốt lõi là phải phá bỏ rào cản pháp lý.
Do hệ thống pháp luật của chúng ta chưa đồng bộ, dẫn đến tình trạng “chặn” ĐMST. Ví dụ, vấn đề chuyển giao công nghệ từ các tổ chức KH-CN (viện, trường) ra thị trường đã bị hơn 10 luật khác nhau chi phối và chặn lại. Hoặc các quy định về Luật Quản lý, sử dụng tài sản công có thể gây khó khăn cho việc định giá và chuyển nhượng kết quả nghiên cứu được hình thành từ nguồn ngân sách nhà nước. Điều này dẫn đến việc nhiều tổ chức KH-CN dù đã ký hợp đồng chuyển giao với doanh nghiệp vẫn không thể thực hiện, khiến kết quả nghiên cứu phải “đắp chiếu” trong ngăn kéo.
Ngày 22-12-2024, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”. Theo tôi, đây là cơ sở quan trọng thúc đẩy thông qua việc sửa đổi, bổ sung các luật: KH-CN và đổi mới sáng tạo, quản lý, sử dụng tài sản công, đầu tư và hàng loạt nghị định, thông tư, tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng, cho phép các ý tưởng sáng tạo, kết quả nghiên cứu và các mô hình kinh doanh mới (như “Doanh nghiệp một người”) được công nhận và thử nghiệm dễ dàng.
Thời gian tới, theo tôi, muốn lan tỏa VHKN toàn dân cần giải quyết 3 vấn đề để khơi thông nguồn lực con người (nhân lực), tài chính và hạ tầng kỹ thuật.
Hiện nay, cơ sở vật chất dùng chung, như: Phòng thí nghiệm, xưởng sản xuất, khu thử nghiệm (testbed) chưa được khai thác hết công năng. Nếu những cơ sở vật chất ấy giúp những người có ý tưởng sáng tạo đánh giá, kiểm tra sản phẩm mà họ nghiên cứu ra thì sẽ giảm đáng kể thời gian, chi phí cho ra sản phẩm thực tiễn.
Về vốn, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam triển khai gói tín dụng 500.000 tỷ đồng dành cho KH-CN và ĐMST là hành động mang tính đột phá. Khi gói tín dụng này đi vào thực tiễn nó sẽ giải quyết bài toán vốn cho các doanh nghiệp, hộ sản xuất muốn ứng dụng KH-CN. Đây là sự cam kết mạnh mẽ của Nhà nước trong việc khơi thông nguồn lực tài chính cho hệ sinh thái.
VHKN ở Việt Nam đang đứng trước thời điểm đẹp với nhiều cơ hội: Đủ trẻ để táo bạo, đủ tự tin để bước vào cuộc chơi toàn cầu. Hy vọng, VHKN sẽ là chất dẫn, là mạch sống mới lan theo cách những ngọn lửa âm ỉ để thổi bùng khát vọng sáng tạo Việt Nam.
PHẠM ĐỨC NGHIỆM, Phó cục trưởng Cục Khởi nghiệp và Doanh nghiệp công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ