Tìm về lịch sử, nhạc ngũ âm còn gọi là Phleang-pin-peat hình thành từ sự sáp nhập có chọn lọc giữa dàn nhạc Pin của Ấn Độ thời kỳ Phù Nam và nhạc Peat thời Ang Kor. Một loại chuyên phục vụ cung đình và lễ tế thần hay phụng sự trong chiến trận để thôi thúc tinh thần tướng sĩ. Từ buổi đầu hình thành, trải qua quá trình phân hóa, giao lưu, tiếp biến, nhạc ngũ âm được dung hòa, điều chỉnh để phù hợp với tính cách, phong tục, tập quán dân tộc như ngày nay.

Trong một lần điền dã về Vĩnh Quới, một trong hai xã tập trung đông đồng bào Khmer nhất của thị xã Ngã Năm (Sóc Trăng), tôi có cơ duyên trò chuyện với ông Danh Gô, một thầy đám hiểu biết sâu rộng về văn hóa lễ nghi truyền thống Khmer. Khi chúng tôi hiểu lầm ý nghĩa từ “ngũ âm” là 5 món nhạc cụ thì ông diễn giải ngũ âm là 5 chất liệu cấu thành dàn nhạc là: Gỗ, sắt, đồng, da và khí. Trong đó, bộ gỗ gồm đàn Rôneat Ek, Rôneat Thung cấu tạo lần lượt từ 26 và 16 thanh tre hoặc gỗ tốt đan khít lại trên giá đỡ như hình thuyền với âm vực bổng trầm khác nhau; bộ sắt có đàn Rôneat Đek do 21 thanh sắt hợp lại tạo tiếng gõ trong như chuông; bộ đồng Chhưng và 2 dàn cồng hình bán nguyệt gọi là Kuông Vông Tôch, Kuông Vông Thum, mỗi dàn 16 chiếc nhỏ có núm; bộ da có trống Samphô và Skô Thum bịt bằng da trâu, bò hoặc da ngựa; bộ khí (hơi) có kèn Srolay Pin Peat với kỹ thuật diễn tấu phức tạp nên rất ít người chơi sành.

Dàn nhạc ngũ âm ra đời cũng là phương tiện chuyển tải âm thanh của đời sống. Nhưng việc chế tác nhạc cụ không dễ, phải am hiểu tường tận về văn hóa dân tộc, biết sáng tạo, giỏi thẩm âm, yêu nghệ thuật, tỉ mỉ trong lựa chọn chất liệu, kiên nhẫn và tâm huyết với nghề... Như thế mới có thể cho ra đời những nhạc cụ tinh xảo, định âm chính xác bảo đảm dàn nhạc được hòa âm hoàn chỉnh, tạo ra giai điệu độc đáo mang hồn dân tộc với những bản tấu khác nhau phụng sự cho những nghi lễ khác nhau.

leftcenterrightdel

Chương trình trình diễn nhạc ngũ âm của người Khmer tỉnh Sóc Trăng. Ảnh: LÂM TUYỀN 

Ông Danh Gô cho biết: “Dàn ngũ âm sử dụng trong các ngày đại lễ tại chùa như Lễ cầu phước, Lễ dâng bông và các dịp Tết cổ truyền Sen Dolta, Chol Chnam Thmây, Ok Om Bok hoặc đám tang. Trong lễ, Tết, dù có quy tụ nhiều bộ nhạc cụ khác nhau nhưng âm thanh của dàn ngũ âm luôn chiếm vai trò chủ đạo dẫn dắt, liên kết các nghi thức, điều phối quy trình hành lễ, làm tăng thêm tính trang nghiêm”.

Với giá trị quan trọng và tiêu biểu, cuối năm 2019, nghệ thuật trình diễn dân gian “Nhạc ngũ âm của người Khmer tỉnh Sóc Trăng” được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đặc biệt, “Chương trình trình diễn nhạc ngũ âm của người Khmer tỉnh Sóc Trăng có quy mô lớn nhất Việt Nam” trong khuôn khổ Lễ hội Ok Om Bok-Đua ghe ngo tỉnh Sóc Trăng khu vực Đồng bằng sông Cửu Long lần thứ VI và Tuần Văn hóa, Thể thao và Du lịch Sóc Trăng lần thứ I năm 2024 cũng được tổ chức Vietkings xác lập kỷ lục.

Bên cạnh niềm tự hào là nhiều thách thức đặt ra. Ngoài những bản cổ truyền thống dành cho dàn nhạc ngũ âm dần mai một, có sự sai lệch so với bản gốc thì người biết trình diễn cũng ít. Nguyên do bởi những bản nhạc và cách chơi được truyền miệng, truyền ngón là chủ yếu, chưa có ghi chép, giảng dạy bài bản nên bị thất truyền nhiều. Chưa kể nhạc ngũ âm là loại hình âm nhạc chuẩn mực với độ khó cao, đòi hỏi khả năng cảm âm, niềm đam mê, sự đầu tư về thời gian mới học tốt. Trước xu thế mới và sự xuất hiện của quá nhiều hình thức giải trí, nhạc ngũ âm ít nhận được sự quan tâm, yêu thích từ thế hệ kế thừa.

Trong nỗ lực giữ gìn loại hình âm nhạc cổ truyền có bề dày lịch sử, ông Danh Gô gợi ý: “Cần có những lớp học nhạc ngũ âm với giáo trình được nghiên cứu biên soạn theo hướng đào tạo cơ bản, chuyên sâu. Không thể bó hẹp trong phạm vi nghi lễ ở chùa chiền, dàn nhạc ngũ âm cần được xuất hiện nhiều hơn trong các chương trình biểu diễn, sinh hoạt văn hóa-nghệ thuật, hoạt động thể thao, du lịch... để đưa những giai điệu đến gần hơn với đời sống thế tục trong thời hội nhập và phát triển cũng là phương án tích cực để bảo tồn và phát huy giá trị di sản của loại hình nghệ thuật có một không hai này”.

HỒ THỊ LINH XUÂN