Ông vào chiến trường từ rất sớm, năm 1963, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bước vào giai đoạn ác liệt. Trong những năm tháng ấy, Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng Trung Trung Bộ có nhiều tên tuổi đã trở thành biểu tượng: Nguyễn Chí Trung, Thu Bồn, Thanh Quế, Ngân Vịnh... Họ vừa viết vừa chiến đấu; không ít người đã ngã xuống giữa chiến trường.

Nhà văn ở chiến trường phải bám sát đơn vị, luôn có mặt nơi tuyến đầu. Các văn nghệ sĩ của lực lượng Quân giải phóng Trung Trung Bộ sống như những người lính thực thụ, trực tiếp ở chiến hào, tham gia nhiều trận đánh, chiến dịch. Chính điều đó đã tạo nên phẩm chất đặc biệt của thế hệ cầm bút ngày ấy, đồng thời tích lũy cho họ vốn sống vô giá. Những tác phẩm còn lại đến hôm nay vẫn được bạn đọc nâng niu bởi chất liệu chân thực, được chưng cất từ cuộc chiến đấu của bộ đội và nhân dân.

Nhiều người vẫn đùa rằng bom đạn dường như luôn tránh xa Ngân Vịnh. Ở tuổi 83, ông vẫn trẻ trung, nhanh nhẹn và hài hước: “Cứ vô tư mà sống, vô tư mà viết. Văn chương là của giời cho ai thì người ấy được hưởng. Có cố cũng không thành tài được, nên cứ vô tư, thơ phú nó tự tìm đến mình”.

Ngân Vịnh tên thật là Phùng Ngân Vịnh, sinh ngày 14-2-1942, quê ở xã Thạch Đà, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phú (nay thuộc Hà Nội). Ông nghỉ hưu năm 1984 với quân hàm đại úy, khi mới 42 tuổi. Khi tôi hỏi lý do việc “về hưu sớm”, ông thường nói vui: “Nhà nước cũng tốn kém với tớ lắm, một mạch hưởng lương hưu đến nay đã hơn 40 năm. Ngày trước, ông Nguyễn Chí Trung luôn để ý bọn lính tráng văn chương, nhưng chuyện nghỉ hưu thì ông ấy không quản được. Thế là tớ rút sớm để rảnh rang thơ phú bạn bè. Khi ông Nguyễn Chí Trung mất, bọn lính văn chương mới thấy hết sự tiếc thương”.

Mãi sau tôi mới biết ông là cậu ruột của Đại tướng Phùng Quang Thanh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Khi tìm hiểu lý lịch văn học của ông để ký hợp đồng chương trình đầu tư sáng tác của Bộ Quốc phòng giao cho Tạp chí Văn nghệ Quân đội, tôi mới rõ thêm gia thế ấy. Tập trường ca viết về người lính tình nguyện Việt Nam chiến đấu giúp nhân dân Campuchia hồi sinh sau thảm họa diệt chủng Pol Pot-Ieng Sary của ông đã gây xúc động đặc biệt đối với những người từng chiến đấu trên đất bạn. Ông từng được trao Giải thưởng văn học sông Mê Công cho các sáng tác về đề tài này.

Khi nói về nghiệp viết, Ngân Vịnh chia sẻ: “Công việc viết văn là công việc tự thân đầy khó nhọc. Không ai đòi hỏi mà mình cứ phải vật vã với nó, như cái ách tròng vào cổ vẫn thích mang. Đó là cái nghiệp, là món nợ phải trả. Làm thơ là hành trình kiếm tìm mình, giãi bày lòng mình qua những điều mắt thấy tai nghe. Tôi may mắn vì nhờ thơ mà được nhận ra vẻ đẹp của thiên nhiên, của con người và đất nước. Tôi thấy hạnh phúc vì được cất lên tiếng nói của dân tộc và góp cho dân tộc chút ấm nồng của tâm hồn mình, như mùi hương cỏ ấu miền quê”.

leftcenterrightdel
      Nhà thơ Ngân Vịnh. Ảnh do tác giả cung cấp

Thế hệ nhà văn, nhà thơ thời chống Mỹ, trong đó có Ngân Vịnh, không chỉ nghiêm khắc trong sáng tác mà còn nghiêm khắc trong đời sống. Nhà văn, nhà thơ đòi hỏi cao ở chính mình và cả những người chung quanh. Tôi đã nghe nhà thơ Thanh Quế và Ngân Vịnh kể nhiều về những tháng ngày chiến tranh gian khổ, ác liệt mà họ trải qua. Đó là những câu chuyện để các cây bút trẻ hôm nay soi mình và tự răn. Ngân Vịnh đặc biệt sở trường thơ lục bát. Những câu lục bát của ông tưởng nhẹ nhàng nhưng chưng cất nỗi đời, thấm sự từng trải: "Vào miền Nam anh không về/ Chị dâu ở vậy một bề nuôi con/ Hết trăng già lại trăng non/ Thời gian cứ đến giũa mòn tuổi xuân"... (Sau chiến tranh). Viết về hậu chiến, nhất là thân phận người phụ nữ, luôn là thế mạnh của nhà thơ Ngân Vịnh. Những câu thơ như chạm vào nỗi cô quạnh âm thầm: "Nửa khuya nhà dột mưa đêm/ Một bên con dại, một bên mẹ già/ Anh thì ở mãi Trường Sa/ Còn ai đâu nữa để mà cậy mong"... (Mưa đêm).

Trong thơ và đời sống, Ngân Vịnh trước sau như một: Trung thực, thẳng thắn, từng trải. Dấu vết chiến tranh luôn đậm trong thơ ông, kể cả khi đất nước đã hồi sinh sau nhiều năm hòa bình. Khi viết về quê hương Thạch Đà, ông vẫn là chính mình với những câu lục bát mộc mạc mà da diết: "Mê Linh lặng tiếng im hơi/ Mẹ ta về đất ta hồi biệt xa/ Mưa xanh chồi quýt đầu nhà/ Nắng hong rơm rạ bãi xa, đồng gần"... (Chốn xưa).

Ông đã xuất bản nhiều tập thơ: Tình yêu nhận từ đất (năm 1977), Bóng rừng trong mưa (năm 1984), Hoàng hôn mây bay (năm 1991), Ếch con và hoa sen (năm 1996), Tiếng đàn của dế (năm 1996), Ngày thường đam mê (năm 1996), Phía hoàng hôn yên tĩnh (năm 2005), Lặng lẽ tường đá ong (năm 2007)..., thể hiện sự bền bỉ, liên tục của một đời cầm bút cống hiến.

Nhà thơ Hữu Thỉnh từng nhận xét: “Anh Ngân Vịnh là người cần mẫn và miệt mài trên cánh đồng chữ nghĩa. Thơ anh thấm tinh thần của người chiến sĩ, với cảm xúc thẩm mỹ chín chắn. Anh là người có trách nhiệm với thơ ca, với nhân dân và Tổ quốc”. Đó là sự nhìn nhận công bằng và trân trọng dành cho một người đã cùng ông nhiều năm ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội.

Những trang thơ góp phần mở rộng tâm hồn, tạo dựng nhân cách. Với thế hệ người lính, thơ của Ngân Vịnh và những nhà văn cùng thời chính là hành trang tinh thần, bồi dưỡng lòng cao thượng, đức hy sinh, sự trung thực và khát vọng vươn tới cái đẹp. Thời gian gần đây, ông thường gọi điện trao đổi với tôi về thơ ca và nhiều điều trong cuộc sống. Ông cũng thường trở về quê Thạch Đà, viếng phần mộ tổ tiên, tìm lại nguồn cội. Vùng đất ấy ngày càng sáng đẹp, như Đà Nẵng-quê hương thứ hai của ông, nơi mỗi sáng tiếng hát “Đà Nẵng tình người” lại ngân vang. Thế hệ của các ông: Thu Bồn, Nguyễn Chí Trung, Thanh Quế... nhiều người đã trở về với đất mẹ, nhưng tình cảm mà họ để lại vẫn vẹn nguyên trong lòng bạn bè và bạn đọc, như chính đời sống và sáng tác bền bỉ của họ.

Nhà văn PHÙNG VĂN KHAI