Chủ đề trung tâm của văn học

Bản lĩnh và nhân cách người chiến sĩ vẫn là chủ đề trung tâm của sáng tác văn học gần đây. 

"Khúc bi tráng thứ tư" là nhan đề bài phê bình của tôi (đăng trên Báo Văn nghệ Công an) về tiểu thuyết "Nậm Ngặt mây trắng" (2019) của nhà văn Nguyễn Hùng Sơn. Tác phẩm đã nhận Giải thưởng (hạng B) Văn học nghệ thuật Bộ Quốc phòng (2014-2019). Vì sao một tác phẩm viết về đề tài “cũ” lại chiếm được cảm tình của ban giám khảo cũng như độc giả rộng rãi? Về hình thức, đây là một cuốn tiểu thuyết về chiến tranh. Tất nhiên có chuyện đạn bom, khói lửa, hy sinh mất mát. Trên mặt trận biên giới phía Bắc chống quân xâm lược suốt 10 năm (1979-1989), đặc biệt Mặt trận Vị Xuyên (Hà Giang), năm 1984, người chiến sĩ đã chiến đấu đến giọt máu cuối cùng và ngã xuống vì chủ quyền lãnh thổ Tổ quốc với khẩu hiệu “Sống bám đá, chết hóa đá, thành bất tử” (câu khẩu hiệu được khắc trên báng súng của đồng chí Nguyễn Viết Ninh, Trung đội trưởng bộ binh đã hy sinh anh dũng).

Ai đó ngây thơ (một cách cố tình) khi nghĩ và nói rằng, hòa bình có thể “xin-cho” thì hãy đọc lại những tác phẩm hay viết về chiến tranh cách mạng trong nhiều thập kỷ qua, song cũng không hiếm hoi trên văn đàn hôm nay như: "Đỉnh cao hoang vắng" của Khuất Quang Thụy, "Rừng đói" của Nguyễn Trọng Luân, "Chuyện lính Tây Nam" của Trung Sỹ, "Mùa chinh chiến ấy" của Đoàn Tuấn, "Gió Thượng Phùng" của Võ Bá Cường, "Lửa sáng phía chân trời" của Châu La Việt... sẽ thấm thía sự thật “máu người không phải là nước lã”.

Nhưng bản lĩnh và nhân cách của người chiến sĩ còn được thử thách và bộc lộ qua phần đời “phía sau người lính”. Ngay trong khói lửa chiến tranh, người chiến sĩ vẫn phải đương đầu với những éo le chuyện đời. Để tập trung cao độ sức mạnh chiến đấu, người lính phải vận hành bản lĩnh, trí thông minh và tinh thần thực tiễn để giải quyết những vấn đề đời sống thường nhật đặt ra nhiều áp lực. Nhân vật sĩ quan Vũ Ngọc Ngạn trong tiểu thuyết "Nậm Ngặt mây trắng" đã không may mắn khi hậu phương của mình không yên ổn. Người vợ vốn tình nghĩa tao khang đã có lúc chấp chới khi vắng chồng. Người lính ở chiến trường ruột như lửa đốt, lúc nào tâm tư cũng chia hai nửa bằng nhau-tiền tuyến và hậu phương. Nhưng vấn đề là phải giải quyết thấu tình đạt lý, không nghiêng ngả bên nào. Vì cuối cùng tổ ấm gia đình mới là cái níu giữ con người bền lâu nhất, hạnh phúc nhất. Không hề giản đơn khi Ngạn giải quyết êm thấm chuyện tình cảm vợ chồng để yên tâm công tác. Đây là cuộc chiến đấu với chính bản thân mình khó khăn nhất với người chiến sĩ.

leftcenterrightdel

Bầu trời và mặt đất. Tranh của họa sĩ LÊ ĐỨC BIẾT

Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã viết: “Con người ta phải biết sống như một người anh hùng và biết sống như một con người bình thường” ("Di cảo Nguyễn Minh Châu", NXB Hà Nội, 2009, tr.348). Đó cũng chính là hai mặt của một tờ giấy-bản lĩnh và nhân cách của con người chân chính nói chung, người chiến sĩ nói riêng. Anh có thể là một người anh hùng trong chiến trận, chiến thắng kẻ thù nơi chiến trường, nhưng rất có thể không chiến thắng được bản thân trong đời thường vì những cám dỗ và những cạm bẫy vô hình. Bởi vì, kẻ thù lớn nhất với mỗi người chính là bản thân mình. Đó chính là cấu tứ sâu sắc của thiên truyện "Hai người trở lại trung đoàn" (1977) của nhà văn Thái Bá Lợi, một tác phẩm từng chia đôi dư luận. Thanh và Trí, hai nhân vật chính của tác phẩm là một “cặp” nhân vật có tính phản đề, triết lý về nhân sinh. Thiên truyện cũng thể hiện sự thay đổi trong cái nhìn nghệ thuật của nhà văn về tính chất ngày càng phức tạp hơn của đời sống và con người.

Người chiến sĩ trước sau vẫn là người dám đương đầu với những khó khăn thử thách gay cấn nhất trong cuộc sống thời hậu chiến. Truyện ngắn "Mùi thuốc súng" của nhà văn Nguyễn Văn Thọ gần đây gây tranh luận trong độc giả và giới phê bình. Mô típ truyện không có gì thật mới, nếu không nói là quen thuộc: Người con trai khoác áo lính ra chiến trường, trước khi đi anh có một con gái với vợ. Nhưng chiến tranh là điều bất bình thường trong đời sống con người. Có đến cả chục năm, cha mẹ và vợ con người lính bặt tin người thân ruột thịt. Rồi cả hung tin bủa vây các thành viên gia đình. Người Việt Nam vẫn có xác tín về dòng giống. Vì thế nên cha đẻ anh đã có quan hệ với con dâu, sinh ra một đứa con trai. Anh đột ngột trở về không phải trong không khí vỡ òa niềm vui đoàn tụ mà là bi hài kịch khi anh nằm giữa, một bên là con (gái) và một bên là em (trai), cả hai đều do vợ mình sinh hạ. Cha đẻ anh đã tự vẫn vì xấu hổ, vì lương tâm cắn rứt trước khi anh trở về. Vợ anh thì chỉ còn câm nín chịu dựng. Lối thoát tinh thần của người lính là chia tay với người vợ đã khiến anh mất đi một phần đời ý nghĩa, mang theo đứa con gái ruột trở lại miền đất xa nơi ngày trước anh chiến đấu, bị thương và được che chở cưu mang, gây dựng cuộc sống mới. Sau này anh còn tận tình giúp đỡ vợ cũ và đứa con trai riêng của cô ta. Nhan đề truyện có ý nghĩa tượng trưng: Khi trở về từ chiến tranh, anh có mang theo một gói thuốc súng (như là một kỷ niệm thời đạn bom, đôi khi như “nghiện” cái mùi đặc biệt ấy). Nhưng trước lúc ra đi làm lại cuộc đời, anh đã ném gói thuốc súng ấy xuống sông. Một thái độ dứt khoát-từ bỏ, buông bỏ hận thù, sống hòa hiếu khoan dung với đời, với người. Nhà văn Nguyễn Văn Thọ là một người lính trận thực thụ (có dư 10 năm chiến đấu ở chiến trường) trước khi cầm bút viết văn. Những gì được viết ra đều gan ruột, thành thật đến cháy bỏng.

Mô típ này cũng được tái hiện trong "Cánh đồng lưu lạc" (tiểu thuyết) của nhà văn Hoàng Đình Quang (đã có dư 5 năm trận mạc ở chiến trường), "Giọt nước mắt người lính" (truyện ngắn) của nhà văn Nguyễn Đăng An (là một sĩ quan công an). Tuy cách kết thúc tác phẩm có khác biệt nhưng tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm thì chung đúc: Phải hóa giải hận thù, phải cố gắng san lấp những hố ngăn cách lòng do chiến tranh gây nên. Tất cả đều chung một “nỗi khổ không của riêng ai”, phải tìm mọi cách ngăn chặn chiến tranh.

Nhà văn cần được tiếp lửa

Trong tiểu luận "Văn học, nghệ thuật ngày nay với sứ mệnh “cứu chuộc con người”, nhà thơ Mai Nam Thắng đã lập luận thuyết phục: “Tình thế của “cuộc chiến” lúc này đòi hỏi người nghệ sĩ cũng phải dấn thân như thế hệ văn nghệ sĩ đi trước đã từng dấn thân trong kháng chiến giải phóng dân tộc; chấp nhận hy sinh và thiệt thòi, đôi khi cả xương máu và tính mạng. Trước hết, để văn học, nghệ thuật làm được cái công việc thức tỉnh, giáo dục, bồi đắp, định hướng đạo đức xã hội và nhân cách con người... thì đòi hỏi mỗi văn nghệ sĩ phải là những tấm gương về nhân cách, mẫu mực về đạo đức và lối sống” ("Theo dòng sáng tạo", tiểu luận-phê bình, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, 2020, tr.117).

Dấn thân, theo cách diễn đạt của nhà thơ Mai Nam Thắng, được hiểu là “sống đã rồi hãy viết” như một phương châm thực hành viết của nhà văn chân chính bất kỳ thời đại nào. Nhưng câu hỏi tiếp theo được đặt ra là “sống như thế nào?”. Trong kháng chiến chống Pháp có phong trào “Văn nghệ sĩ đầu quân”-trực tiếp tham gia quân đội để có chất liệu sống và viết. Trong kháng chiến chống Mỹ có khẩu hiệu “chiến trường sống và viết” của các nhà văn thế hệ đi trước như: Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Thi, Nguyễn Văn Bổng, Phan Tứ, Xuân Thiều, Nguyên Ngọc, Nguyễn Trọng Oánh,... Sống và viết ở chiến trường đã tôn tạo “vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy” (Chế Lan Viên).

Nhà thơ Xuân Diệu đã viết về sự gắn bó với đời sống trong chiến tranh của người nghệ sĩ ngôn từ: “Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi/ Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu/ Tôi sống với cuộc đời chiến đấu/ Của triệu người yêu dấu gian lao (...)/ Đã mấy khi tôi thức với non sông/ Trọn những đêm ròng, mắt chong chân bước/ Đêm hành quân thả tâm hồn đi trước/ Yêu với căm hai đợt sóng ào ào/ Vỗ bên lòng, dội mãi tới trăng sao” ("Xuân Diệu, Tác phẩm chọn lọc", Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 2009, tr.93).

Trong thế giới phẳng và không gian mạng, trên nền tảng tri thức và kinh tế số, con người đã có những thay đổi đáng kể trong lối sống, trong đó “sống ảo” là một phương diện của hoạt động tinh thần. Các nhà văn thế hệ 7X, 8X... có thể nói đều thuộc về “cư dân mạng”. Quan niệm “văn chương là một trò chơi vô tăm tích”, như một thứ model, cũng không phải đã một sớm một chiều phai nhạt trong tâm thế người viết văn hiện nay. Cuộc cạnh tranh giữa văn hóa đọc và văn hóa nghe nhìn đang đẩy văn học vào thế bị động, mất dần thị phần sinh hoạt tinh thần trong thời đại công nghệ 4.0. Thực tế này đặt ra trước những người làm công tác quản lý văn hóa, nghệ thuật một đáp trả nhạy bén để chuyển hóa thách thức thành thời cơ trong hoạt động sáng tạo văn học, nghệ thuật.

Đang có những tranh luận học thuật sôi nổi và thú vị về “nhân vật trung tâm thời đại” trong văn học, nghệ thuật. Thiết nghĩ, nhân vật nào biểu trưng được các giá trị nhân cách, văn hóa Việt thì đó là điểm độc sáng, phát sáng của tấm gương nghệ thuật có khả năng phản chiếu xã hội đang đổi mới và phát triển dưới ánh sáng của "văn hóa soi đường cho quốc dân đi". Hình tượng người chiến sĩ với bản lĩnh và nhân cách mới chắc chắn là biểu trưng của con người văn hóa Việt Nam cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai.

 Nhà phê bình BÙI VIỆT THẮNG