leftcenterrightdel
Minh họa: PHÙNG MINH 

Tôi hỏi một đại úy bộ đội đứng bên sạp báo. Anh mỉm cười gật đầu lễ phép, có lẽ tại nhìn hình dáng tôi bệ vệ quá, dù chỉ là một giáo chức về hưu.

- Bác Hai hỏi ông Sáu nào ạ?

- Sáu Quân! Huyện đội trưởng cũ đó chú.

- Cháu ở huyện đội nè! Hồi nào tới giờ có nghe nói ai tên Sáu Quân đâu?

Kỳ vậy ta? Sáu Quân một thời khét tiếng ở huyện biên giới những năm 1975-1978, vậy mà không ai biết là sao? Mấy cha bên hội cựu chiến binh quan liêu quá, giới thiệu người ta đi viết truyền thống giùm mà cho địa chỉ lãng nhách. “Anh cứ ghé ấp Bờ Sông, hỏi nhà Sáu Quân là người ta chỉ liền”. Giờ thì tôi kiếm nát đất từ sáng tới trưa đứng bóng mà không thấy “sáu quân, sáu tướng” nào hết. Khát nước, tôi ghé uống nước dừa trong quán nhỏ bên đường, bà già chủ quán hỏi tôi:

- Bộ chú kiếm ai hả? Sáng giờ thấy quầng quầng tới, lui hoài.

- Tôi kiếm nhà Sáu Quân, huyện đội trưởng cũ mà hổng ai biết hết trơn. Anh em bên huyện đội cũng nói hông biết.

- Ôi! Từ ba, bốn chục năm trước làm sao nhớ cho xuể. Chú thử ghé nhà ông Năm Thu kế bờ sông, hỏi coi ổng biết hông. Ổng nầy cũng sĩ quan quân đội về hưu mà. Hồi giáp Tết, có một xe chở mấy ông tướng từ Hà Nội vô thăm ổng đó.

Một phụ nữ chừng sáu mươi tuổi ra mở cổng cho tôi. Chị nói mình là vợ Năm Thu. Nghe nói có khách, Năm Thu đi từ mé bờ ao lên, tay ôm mớ rau muống dài thượt. Cặp kiếng lão bắt ánh nắng, chiếu sáng lóe vào mắt tôi. Người đàn ông tầm thước, da ngăm đen này nhìn quen quen.

- Mấy bè rau muống tốt quá trời, tính lội ra cắt cho heo mà nước sâu quá. Ai hỏi tôi đó bà?

Cho mãi tới khi ngồi trong phòng khách có bộ salon da lịch sự, chờ Năm Thu thay đồ, tôi cứ mang máng nhớ gặp người này ở đâu rồi. Năm Thu bước ra với bộ quân phục cũ, tóc bạc chải láng mượt, lộ ra vầng trán cao rộng.

- Xin lỗi! Anh ở đâu, tới kiếm tôi có việc gì?

- Dạ, thưa anh Năm! Tui đi kiếm người bạn mà không ra, mới ghé hỏi anh biết chỉ giùm.

- Ai mà khó kiếm dữ vậy?

- Dạ, Sáu Quân, huyện đội trưởng cũ anh à.

Năm Thu ngưng cái ấm chuyên đang rót trà ra ly.

- Anh quen Sáu Quân hồi nào?

- Dạ, tôi chưa biết ổng, là nghe giới thiệu vậy... Mà sao tôi thấy anh Năm quen quen.

Năm Thu gỡ cặp kiếng lão ra lau, mang vô lại, nhìn tôi lom lom.

- Ông phải người Hậu Giang hông?

- Dạ phải! Tôi người huyện Ô Môn anh à.

- Phải dân Đông Hiệp hông?

- Dạ phải... Trời! Ai như Sáu Hò?

- Chết mẹ! Đụng người quen rồi nghen.

Năm Thu đứng dậy chạy qua ghế bên nầy, mang cặp kiếng lên, ngó sát mặt tôi.

- Mèng đéc ơi! Thằng Dũng kỵ sĩ đây chớ ai! Hơn năm mươi năm rồi đó cha. Già khú đế rồi, nhưng tao ngó cái thẹo trên trán mầy là nhận ra liền hà.

Thật bất ngờ vì chúng tôi là hai người bạn thuở chăn trâu cắt cỏ nhận ra nhau. Sáu Hò mồ côi cả ba má, đi ở mướn cho địa chủ Hách. Tía tôi dạy học trường làng, nhưng tôi vẫn phải đi chăn bò hằng ngày phụ má. Sáu Hò không biết tên khai sanh là gì, chỉ biết nó thứ sáu, lớn lên có giọng hò ngọt như nước dừa xiêm, làm tụi con gái mê mẩn quên ăn cơm, uống nước nên người ta đặt biệt danh là Sáu Hò. Tôi có biệt tài cưỡi bò, phi trên ruộng băng băng làm Triệu Tử Long xông xáo cứu ấu chúa A Đẩu nên có biệt danh là Dũng kỵ sĩ hay Dũng bò. Sanh nghề tử nghiệp, một bữa Triệu Tử Long tôi uýnh bò chạy dữ quá, té trên lưng bò xuống đất, bị cành cây đâm lủng trán, máu me quá trời. Sáu Hò cõng tôi chạy về nhà. Sau khi băng bó xong cho thằng nghịch tử, tía liền quất cho tôi mấy roi quắn đít về tội quậy phá. Còn nhớ lần đó, Sáu Hò tội nghiệp lắm. Nó quỳ lết trước mặt tía tôi, mếu máo.

- Tại con mà cậu Năm. Tại con xúi thằng Dũng đó cậu. Cậu đừng uýnh nó nữa, uýnh con nè.

Đang cơn giận, tía tôi quay sang vụt liền hai roi vô mông đít nó, nhưng chắc uýnh nhẹ hơn tôi. Ông nạt lớn:

- Còn mầy nữa! Uýnh cho chừa mấy vụ bày trò chơi ngu. Lần sau tao thấy nữa, tao ném cả hai thằng xuống sông cho cá sấu ăn.

 Năm 1946, Nam Bộ đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp. Chúng tôi còn nhớ những câu hát hừng hực lửa cách mạng: Mùa thu rồi, ngày hăm ba/ Ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến. Rền khắp trời lời hoan hô/ Quân dân Nam nhịp chân tiến lên trận tiền... Sáu Hò, nghe nói bỏ đàn bò của địa chủ Hách ngoài ruộng, trốn theo bộ đội Việt Minh và đi tuốt luốt không thấy hồi quê. Người ta bảo nó chết rồi và quên dần cái tên Sáu Hò, kể cả mấy cô gái từng mê mệt vì giọng hò của nó.

Ai ngờ tôi gặp Sáu Hò tại một xã biên giới xa lắc ở miền Đông.

- Ông lên đây hồi nào?-Sáu Hò hay giờ là Năm Thu hỏi tôi.

- Thì từ năm ông bỏ xứ theo Việt Minh đó. Tôi bị tía bắt đi học, rồi vô ngành giáo dục. Giải phóng xong được trở lại nghề dạy, nhưng xin lên công tác miền biên giới, rồi định cư ở đây luôn. Nhà tôi ở phường 2 thị xã, bữa nào ông ghé chơi. Mà sao tên ông là Sáu Hò lại đổi qua Năm Thu? Bộ có ân oán giang hồ gì hả?

- Hà hà! Ân oán giang hồ không có nhiều, còn Năm hay Sáu, lớn hơn nhau một bậc, có gì đâu. Trốn đi cách mạng, tôi đổi tên là Năm Thu, để nhớ cái mùa thu đó... 

Năm Thu kể cho tôi nghe những năm tháng cầm súng chiến đấu cho nền cách mạng non trẻ. Đánh thắng thực dân Pháp rồi, anh tập kết ra Bắc. Ba năm sau, Năm Thu được chọn đi học trường quân sự, ra trường rồi lại được tổ chức phân công bí mật trở lại chiến trường miền Nam, tiếp tục cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Từng công tác lâu năm ở Trung ương Cục miền Nam, một thời anh lăn lộn khắp chiến trường miền Đông ác liệt.

- Rồi mầy thì sao? Thằng quỷ!

- Sau vụ ông trốn khỏi nhà địa chủ Hách, nhỏ Tám Bạch khóc quá trời. Cổ tìm gặp tui, nhờ kiếm ông nhưng tía tui còn hông biết nữa là...

Năm Thu nheo nheo cặp mắt già nua sau tròng kiếng. Hình như có nước rịn ra nơi khóe mắt.

- Ông nhắc tui mới nhớ. Tám Bạch sau có lấy con trai địa chủ Hách không? Tội nghiệp cổ, mê mấy câu hò, chớ thân ở mướn như tui, làm sao nuôi vợ con mà dám thương người ta.

Cô Tám Bạch đẹp nhứt nhì xứ Ô Môn, con trai địa chủ Hách đeo ngày đeo đêm, mang bạc tiền, vải vóc ra dụ dỗ mà cô hổng chịu. Trong dịp lễ kỳ yên thượng điền năm đó, gặp Sáu Hò và đám trai làng đi lễ, hò qua hò lại rồi mê mẩn không về được.

- Sáu Hò trốn đi được ba tháng, Tám Bạch cũng trốn đi cùng một người.

Năm Thu chồm người qua phía tôi.

- Theo ai vậy?

- Nói ông đừng buồn, chớ cổ theo tôi lên Cần Thơ. Đi để trốn thằng con địa chủ Hách thôi. Tôi đi học, cổ đi ở cho nhà giàu. Sau mấy năm lên Sài Gòn học sư phạm, tui mất liên lạc với cổ.

Năm Thu buồn hiu. Tôi biết ảnh còn thương cô Tám ngày xưa.

- Tưởng ông biết cổ giờ ở đâu chớ.

Tôi phì cười.

- Có biết! Mai mốt tui đưa ông tới tận nhà thăm bả. Giờ tui nhờ ông một chuyện. Ông có biết cha Sáu Quân, trước là huyện đội trưởng không? Ổng huyện đội trưởng từ hơn ba mươi năm trước lận, sau chuyển đi đâu không biết nữa.

Năm Thu lại ngạc nhiên, bình nước đang chảy róc rách xuống ly bỗng dừng lại giữa chừng.

- Người quen hả?

- Quen biết gì đâu. Kiếm có chút việc thôi.

- Chả đang ngồi trước mặt ông chớ đâu.

- Hả? Giỡn sao ông?

Năm Thu ghé tai tôi, thì thào kể, chắc thói quen từ hồi hoạt động cách mạng.

- Trước làm huyện đội trưởng mấy năm, rồi cấp trên bí mật điều sang công tác giúp nước bạn. Rồi về đây với cái tên Năm Thu, công tác ở Mặt trận huyện riết rồi nghỉ hưu. Hỏi Sáu Quân coi như mò kim đáy biển. Vậy là ông hên đó.

Anh mở cánh tủ thờ, mang ra một xấp huân chương. Cao nhất là Huân chương Độc lập hạng Ba, thấp nhất là Huân chương Chiến sĩ vẻ vang, cả một đống bằng khen, giấy khen của Bộ Quốc phòng; của cục nầy, sở kia, Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.

- Sao không treo lên, ông kẹ? Thành tích của mình mà!

Năm Thu cười khó hiểu.

- Có những cái chỉ cần cách mạng, cần Đảng biết cho mình là đủ. Từ lâu tôi có thói quen kín đáo. Ông tin không? Hơn sáu mươi năm làm cách mạng, có khi giữ những chức vụ quan trọng ngang cấp bộ trưởng, vậy mà về hưu, tôi vẫn mang cấp hàm thiếu tá. Mình phục vụ cách mạng, tự nguyện đi trong những lối mòn nhỏ để cho dân tộc đi trên đường lớn.

Tôi hất hàm về phía có treo chiếc Bằng Tổ quốc ghi công, hỏi:

- Của ai vậy? Ông có anh em nào đâu.

- Là thằng Tiến, bạn tui. Chồng cũ của bà xã tui bây giờ.

Năm Thu lại rịn rịn nước mắt. Cha nầy già sanh tật, mau nước mắt quá, không như ngày xưa, lỳ một cây. Bỗng anh đứng dậy, lấy chiếc áo trên vách, khoác lên vai.

- Chừng nào đưa tui đi thăm Tám Bạch?

- Thì bữa nào ông rảnh, về nhà tui. Bà xã tui chớ ai.

- Vậy là sao?

Mặt mũi chả đỏ rần, nét giận dữ hiện trên ánh mắt.

- Bình tĩnh đi ông già. Sau giải phóng, tình cờ gặp lại bả. Cũng dân trong rừng ra mà. Không hiểu sao ngoài bốn chục tuổi vẫn chưa thèm có chồng. Hồi đó vợ tui mới mất, một mình nuôi hai sắp nhỏ. Bả thương, theo tui lên đây lập nghiệp. Vậy thôi!

Hình như anh cố nén thở dài.

 Nghe vụ tôi được giới thiệu tìm hiểu viết về cá nhân anh, Năm Thu (hay Sáu Quân) xua tay.

- Thôi ông! Mấy cha đó rùm chuyện quá. Có gì mà viết. Để tôi biểu bà già mần vịt nhậu chơi. Ở đây ngủ với nhau một đêm. Mai tui theo ông về trển thăm Tám Bạch luôn. Hén?

Truyện ngắn của PHÙNG PHƯƠNG QUÝ