Đêm hoang liêu phủ kín khu vườn. Cây cối hứng sương khuya. Đất đai đẫm ánh trăng bạc. Mặt nước trong hồ chuyển hẳn sang màu bàng bạc huyền ảo. Trăng sáng, bức bình phong đổ bóng che kín nửa hồ. Tôi ngồi vô tư lự trước hiên, nhìn trăng soi trong hồ. Bất chợt, tôi nhớ về ngày đầu tôi đưa em về đây.
Đầu tiên, tôi phải kể về em đã!
Tôi gặp em ở bờ biển Plage de la Salis. Mùa hè, mặt trời như thể giậm chân tại chỗ. Tối, cả bãi biển vẫn rực lên ánh hoàng hôn. Nước biển lóng lánh. Tôi tản bộ một mình, hòng ngắm quả cầu lửa khổng lồ chìm dần xuống đại dương bao la. Vô tình, tôi thấy một người phụ nữ và một đứa trẻ ngồi trên hàng ghế bên bờ biển. Một cô gái Tây Âu ngắm biển?! Không, tóc cô ta màu đen óng ả, dáng người nhỏ nhắn-tôi nhận ra khi đến gần hơn và nhìn kỹ, hoài thai ý nghĩ mơ phai.
- Tôi có thể ngồi ở hàng ghế này?-Dĩ nhiên là tôi lịch sự mở lời bằng tiếng Pháp thông thạo của mình.
Em ngước lên, nhìn tôi với ánh mắt ngây thơ, ngơ ngác. Ồ, là một cô gái thuần nét Á Đông. Và tôi nhận ra, phán đoán của tôi đã không sai.
Theo đôi mắt mơ hồ loang trong sự hồ nghi, tôi nghĩ em không thích tôi ngồi cùng. Tôi liền trở gót toan đi. Vừa quay lưng, tôi nghe giọng nói bằng tiếng Việt: “Ăn đi con”.
- Ôi, cô là người Việt?-Tôi hồ hởi, ánh mắt sáng lên. Tôi không nghĩ rằng ở Antibes mà lại gặp được người Việt trong tình cờ thế này.
- Dạ, em là người Việt-giọng Huế cất lên, thuần khiết.
Một thằng con trai xa quê hương đủ lâu, nghe được giọng Huế giữa quê người thì như đi rừng khát bỗng gặp con suối trong. Bằng một mối tương giao vô hình giữa những người đồng hương, chúng tôi ngồi nói chuyện như thể đã quen thân nhau từ trước.
Không một sợi dây ràng buộc giữa nam-nữ, không một bức tường ngăn cách giữa người xa lạ và không một khoảng cách vô hình giữa chúng tôi. Mà kỳ thực thì cũng không hẳn như thế, em tự nhiên với tôi chắc để đáp lại sự nồng nhiệt, xởi lởi của tôi. Nghe lời trần tình của em, tôi thốt lên:
- Chao ôi, răng dại rứa em? Răng em không về Huế?
Em lắc đầu. Cái lắc đầu thoái thác ước mơ ấy cho tôi hiểu, tiền-thứ quyết định nẻo đi đường về của con người ta.
- Ba mẹ em có biết chuyện không?
- Họ mất rồi, trong một cơn bão đổ ban đêm giữa phá.
Em kể tôi nghe, vẫn không quên xé nhỏ mẩu bánh mì khô khốc đút cho con, vẫn không quên chuyện làm mẹ giữa nước Pháp xa lạ. Gió bung biêng hua tát. Biển chìm dần vào u tối. Trước mắt tôi, một người con gái trẻ của đầm phá Tam Giang, nhỏ nhắn, nhưng kiên cường và mạnh mẽ đến nể phục. Em, người đi lạc/hoang ở cả hiện thực lẫn trong mơ. Tôi chỉ mường tượng đến cảnh em một mình ấp con ngủ trong vòng tay gầy nơi căn phòng tù túng, đã thấy tim mình xốn xang, trĩu nặng.
Bánh mì trên tay đã hết, em cũng đứng dậy và chào tạm biệt. Chúng tôi chia tay nhau. Bóng tối đang lấn dần vào không gian trống trải của bờ biển, cố nhiên chẳng một chút nhượng bộ tà dương. Bóng em dắt tay con nhỏ phía xa đổ dài trên đường. Cũng thật may, tôi đã xin số điện thoại để liên lạc với em...
Một thời gian sau, tôi bảo vệ thành công luận án tiến sĩ ở Paris. Tôi nhắn cho em báo tin vui này và cũng nói với em rằng, tôi sẽ đưa em và con về ra mắt ba mạ tôi ở Huế. Chỉ là nói qua điện thoại, nhưng tôi có thể cảm nhận cảm xúc nửa vui nửa buồn đan xen lẫn lộn trong em, khi câu trước và câu sau em đã hạ giọng.
Em từ chối việc cùng tôi về Huế. Chẳng phải về lại quê hương là niềm ao ước lớn nhất của em hay sao? Em vẫn hằng hoài vọng về con nước lợ vỗ bờ sủi bọt bèo bên triền phá ngày trời động, nhớ quay quắt con cá kình quẫy trong sóng nước lăn tăn ngày phá êm dịu mà. Hay là, có một lý do nào khác, mà thằng con trai chưa trải hết sự đời, chưa nếm hết mặn ngọt cuộc sống như tôi không có một tâm hồn trắc ẩn để hiểu ra?
Tôi phải đưa em về. Tôi hạ quyết tâm. Và rồi, em cũng gật đầu bởi sự ương ngạnh và cứng đầu của tôi nối tiếp liên tục trong hơn hai tuần. Em sẽ xa bãi biển Plage de la Salis vài ngày nữa.
Ba tôi là nhà báo, tuổi già nên lui về viết văn, còn mẹ là giảng viên đại học, nhưng đã hưu trí an nhàn. Trên chuyến bay, tôi nói với em, ông bà là những trí thức rất trọng lễ nghĩa, em nhớ giữ phép nghe. Nói rồi, tôi lại nghĩ, những lời dặn về việc cư xử là bằng thừa với em. Đáng lẽ ra, những điều ấy tôi không cần phải nói, chỉ cần giới thiệu ba mạ tôi cho em biết là đã đủ.
Đêm ở Huế tựa hồ một dòng sông sâu không thấy đáy. Tịch mịch. Thăm thẳm. Thâm nghiêm. Trầm mặc. Và... buồn. Tôi miên man nhớ về đêm ấy.
Tôi đưa em về Huế, gặp ba mạ tôi. Dường như nỗi mặc cảm thân phận chiếm hữu và lấn át cả lời ăn tiếng nói, thành ra em cứ rụt rè. Hay đó là sự rụt rè thường hằng của những cô gái trẻ ngày đầu về ra mắt? Hẳn nhiên, ba mạ tôi luôn nồng hậu với khách. Cái nồng hậu của người Huế không hào sảng, mà rất kín đáo, từ tốn và tao nhã.
Đêm, em và con nằm ở phòng tôi. Còn tôi thì ngủ trong thư phòng. Có tiếng gõ cửa phòng sách.
- Con ngủ chưa?-Mạ tôi hỏi khi cánh cửa vừa mở.
- Dạ chưa, con đọc đôi ba trang sách rồi ngủ.
- Con đọc chi đó?-Mạ vừa hỏi vừa ngồi xuống bộ bàn ghề gỗ mà ba tôi vẫn thường bắt đầu một thời trà sáng ở đó.
- Con đọc lại Franz Kafka.
- Sách của ông mãi mãi không thể giải hết nghĩa.
Tôi định nói về ý nghĩa của quả táo được ném hú họa mà tôi vừa phát hiện một tầng ẩn dụ thứ ba (mạ con tôi có sở thích cùng bàn về văn chương khi rỗi), nhưng chưa kịp mở lời, mạ đã nói:
- Bảo Long, mạ sẽ không chấp nhận Yến-giọng mạ tôi cứng rắn.
Tôi ngỡ ngàng. Mạ tôi thường rất tế nhị khi nói chuyện, nhưng hôm nay không như thế.
- Mạ cho con được định đoạt tình yêu của mình-tôi nói.
- Con là một trí thức. Một chàng trai trẻ. Một thằng trai tân.
- Thì răng, thưa mạ?
Đêm muộn, tiếng côn trùng rỉ rả vỡ vạc trong ánh trăng ướt át phía khu vườn bên ngoài cửa sổ. Trong căn phòng, ánh đèn vàng vọt bao trùm, bọc lấy cả những kệ sách lớn với những quyển sách được đặt ngăn nắp theo thể loại. Cảm tưởng ánh sáng sắp tan tành bởi sự đè nén của một sức mạnh hư vô, như thủy tinh bị đè nén bởi một lực vô cùng lớn.
Và giấc mơ, giấc mơ đẹp của tôi và em gần như trôi nổi giữa đầm phá mênh mông. Tại sao mạ lại ngăn cấm chúng tôi? Mạ không chấp nhận đứa con trai độc nhất của mạ lấy một cô gái không học thức cao, không ba mẹ, lại thêm một đứa con? Mạ là một người phụ nữ Huế. Phụ nữ Huế được đóng khung trong khuôn thước. Nhưng mạ tôi là một trí thức, tư duy không thể bị đóng khung như thế được.
Tôi cứ nghĩ, khi đưa em về, mạ tôi sẽ thương em. Thương vì đồng cảm phận đàn bà con gái. Cái ý nghĩ đầy tính chủ quan của một thằng con trai đã nằm ngoài vòng tròn đồng tâm. Vòng tròn là quan điểm, là tư duy của mạ.
- Con đủ lớn để biết tình yêu đích thực. Để biết ai yêu con thật lòng.
Mạ không nói gì nữa khi thấy tôi kiên quyết. Một thời gian sau đó, mạ tôi vẫn không chấp nhận em. Chúng tôi vẫn yêu nhau. Tình yêu lẩn khuất sau ánh mắt của mạ.
- Có phải bác không ưa em?-Em hỏi.
- Không, mạ anh ưa em. Em thấy ba mạ anh vẫn luôn nồng hậu với em mà.
Con trai dở tệ trong việc giấu giếm. Bằng trực giác phụ nữ, bản năng đàn bà, em nhận ra điều gì đó. Mỗi ngày, em xa tôi dần. Lạnh nhạt. Thoái thác.
Đến một ngày, tôi lại nói về em với mạ. Mạ tôi trầm ngâm và... gật đầu. Thực tình, tôi không hiểu lý do mạ tôi chấp nhận em, trong khi trước đây mạ hết mực ngăn cấm.
Chúng tôi về Huế kỵ mệ nội. Chiều nay, em xuống bếp với mạ, nấu nướng ba mâm cơm cúng. Một mâm cúng chay và hai mâm cúng mặn. Nhìn em loay hoay trong bếp, tôi chợt nghĩ, có phải đây là lý do mạ tôi chấp nhận em? Và tôi cũng tự hỏi, nếu em không giỏi nữ công gia chánh thì liệu rằng một bà mẹ Huế phép tắc và lễ nghĩa có chấp nhận em làm dâu con trong nhà?
- Anh chưa ngủ à?-Tiếng em cất lên sau lưng tôi.
- Anh không ngủ được. Em không ngủ sớm, mai còn phải dậy nấu cơm cúng?
- Em cũng như anh, không thể ngủ.
Khuya, chúng tôi ngồi bên nhau, ngắm trăng hạ huyền phản chiếu trong hồ nước. Trăng vỡ xối xả. Màu nước bạc lóng lánh. Em tựa vào vai tôi, nỗi ấm áp và niềm hạnh phúc vẫn nguyên sơ như ngày đầu tôi gặp em. Và khả dĩ, tôi đã thành công một nửa ước muốn che chở cho em. Ước muốn thành hình trong tâm trí tôi ngay từ lần đầu gặp em ở Antibes.
Bất giác, tôi nhớ đến câu nói của ba: “Ba thấy thế gian dưới đáy chén trà, có cặn”. Còn tôi, đêm nay, tôi thấy tình yêu trong trăng hạ huyền in bóng mặt hồ. Ánh trăng vỡ xối xả trong mặt nước phẳng lặng.
- Em có nghe hương trái thanh trà chín không?
- Thơm hương thanh khiết quá.
Truyện ngắn của NGUYỄN VĂN ĐỨC ANH