Nói chuyện về thơ ca, Trần Anh Thái bao giờ cũng tận cùng, ráo riết. Thơ thực sự là một vùng đất thần thánh, thiêng liêng trong tâm hồn ông, đến nỗi, ông có thể nổi cáu nếu ai đó “đụng chạm” vào vùng đất ấy mà thiếu thiện chí. Thơ với ông là trên đường, là không cần định nghĩa, nhưng “hãy đi là sẽ tới”.
Trần Anh Thái có một sự nghiệp thơ dày dặn. Chưa phải câu chuyện tổng kết đâu, vì với thơ, ông có bao giờ thôi “trên đường”. Nhưng cứ nhìn vào số lượng tác phẩm thì biết ông viết sung sức như thế nào, thơ chiếm một phần đời quan trọng với ông đến thế nào. Riêng mảng trường ca, ông đã có tới 4 tập, gồm “Đổ bóng xuống mặt trời”, “Trên đường”, “Ngày đang mở sáng”, “Mỗi loài hoa một mặt trời”. Trần Anh Thái được xem là người đã làm “hồi sinh thể loại trường ca đầu thế kỷ 21”, một thể loại hấp dẫn nhưng không dễ để chinh phục người đọc, càng không dễ để có được thành tựu. Trường ca là mảnh đất lành, nhiều thử thách nhưng cũng là một mạch nguồn thầm lặng mà không kém phần dữ dội trong tâm hồn thi sĩ. Cảm hứng chủ đạo của ông trong trường ca là viết về số phận con người, đặc biệt những con người phải chịu đựng nỗi đau, mất mát bởi chiến tranh. Giống như nhiều nhà văn mặc áo lính khác, Trần Anh Thái mang theo những ám ảnh chiến tranh và trong những trường ca dài ngồn ngộn cảm xúc và câu chuyện thời cuộc, ông xoay quanh nỗi đau chiến tranh, như một điều không thể chối bỏ hay thoái thác trong tâm hồn nhạy cảm của mình. Ông từng thổ lộ: “Những năm tháng khốc liệt, chết chóc của cuộc chiến luôn ám ảnh và chi phối tôi trong mọi sáng tác sau này. Tôi cũng không thể hiểu nổi, làm thế nào mà tôi còn sống và có thể trở về và là người cầm bút viết văn như bây giờ”.
Cả trong trường ca và trong thơ Trần Anh Thái thường mang trĩu nặng nỗi buồn. Cảm nhận ông viết gì cũng buồn. Nỗi buồn là một điểm chỉ cố hữu không những trong thơ mà ngay cả trên gương mặt ông, ngay lúc ông cười. Trần Anh Thái là con người của ký ức, đến nỗi dù đã sống nhiều năm tháng ở đô thị thì thế giới tâm hồn của ông vẫn thuộc về những năm tháng vai mang ba lô, tay cầm bút, cầm súng ra chiến trường, thuộc về những năm tháng ấu thơ nghèo khó mà thần tiên trên vùng đất ven biển Tiền Hải, Thái Bình quê ông. Đó là “mảnh đất nâng tôi qua nồng ấm bình minh vang vọng tiếng người”, nơi in dấu những người thân yêu ruột thịt: “Cha vác kheo đi dưới mặt trời/ Bóng gẫy trên mặt sóng”, nơi có người mẹ nghèo “giấu giọt nước mắt đàn bà sau vạt áo lặng rơi”, có người chị một đời im lặng đắng cay chờ đợi: “Chị héo hon lẫn vào dòng người đi tìm hài cốt/ Ca cút kêu thảng thốt bên trời”. Những con người bình dị ấy chính là điểm tựa, là “đê chắn sóng” cho người lính cầm bút ra chiến trường Trần Anh Thái, và khi trở về trong hòa bình, nỗi đau hậu chiến ông cũng nhìn thấy rõ nhất ở họ.
    |
 |
Nhà thơ Trần Anh Thái. Ảnh: XUÂN GỤ
|
Làng biển Trần Anh Thái sinh ra đã đi vào thơ, vào trường ca của ông không biết bao lần. Làng “là nơi cho ánh sáng tìm về, cho mặt trời nương tựa”. Làng hiên ngang “trước biển sóng rền bão tố”. Đối với nhà thơ, viết về ngôi làng của mình cũng giống như một cuộc trở về tìm kiếm căn cốt chính mình, tìm kiếm bản thể, tiếp xúc với tổ tiên và nghe rõ tiếng gọi của hôm nay. Bởi vậy mà các nhân vật trữ tình trong trường ca của Trần Anh Thái luôn là những con người bình dị, “không có một chút địa vị xã hội nào”, những mẹ, những chị, những anh, những đồng đội... đại diện cho tầng lớp nông dân nhiều lam lũ buồn đau nhưng rắn chắc và bền vững. Theo ông “họ mới là những người thực sự vĩ đại, họ là mặt trời và còn lớn hơn cả mặt trời. Họ mới là những người làm nên sự thống nhất vĩ đại giữa hai miền Nam Bắc năm 1975 chứ không phải ai khác”.
Trần Anh Thái thường kể về ngôi làng mình trong những cuộc ngồi nhậu, ngồi chơi, đàm đạo với bạn bè. Nghe ông nói về biển, về tiếng sóng ru những đêm mùa đông, về ngôi nhà của cha mẹ ông với hàng rào chè dại bao quanh và hình ảnh người chị cả ngồi dưới thềm nhà những đêm trăng suông, đôi khi người nghe cứ ngỡ mình lạc vào một bức tranh với một không gian đặc quánh, riêng biệt. Trong cái nhìn của ông, vẻ đẹp của làng luôn phủ một màu sương khói của tâm trạng, buồn xa xăm và đẫm chất thơ. Ký ức buồn đẹp ấy giống như một thứ “vitamin” cần thiết cho tâm hồn nhiều âu lo thi sĩ của ông. Dễ hiểu vì đó là nơi khởi nguồn cho con đường thi ca Trần Anh Thái, con đường đi tìm ánh sáng, đối diện với mặt trời. Ông kể chuyện căn nguyên vì sao có cái tên trường ca “Đổ bóng xuống mặt trời” (tác phẩm từng giành giải thưởng của Bộ Quốc phòng và giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam): “Một hôm tôi theo mẹ lang thang ra dòng sông ngoài cánh đồng chơi. Tôi bất ngờ nhìn thấy bóng mẹ tôi đi phía trước, bên dòng sông. Bóng bà im trùm xuống mặt nước. Cái bóng của bà to lớn, uy nghi, sừng sững đổ lên bóng mặt trời nhỏ nhoi, xa tít dưới tận đáy sông. Tôi chợt nghĩ, hóa ra mặt trời không phải lúc nào cũng to lớn, kỳ vĩ như người ta tưởng, người ta thường thấy. Sau này khi viết trường ca “Đổ bóng xuống mặt trời” cái bóng in trên mặt nước của mẹ tôi cũng luôn ám ảnh. Nó to lớn, bền vững và mạnh mẽ hơn hết thảy. Đó cũng là “cái bóng” của những người dân nghèo khổ, cam chịu ở làng tôi. Cái tên “Đổ bóng xuống mặt trời” ra đời từ đấy”.
Trần Anh Thái là một người thơ rất chân thật. Ở ông không có sự điệu đàng, làm duyên làm dáng, cả trong cuộc đời và chữ nghĩa. Mấy chục năm sống giữa Thủ đô phồn hoa tấp nập, ông vẫn có gì đó như lạc thời. Ông chẳng màng lắm những tiện nghi của đời sống hiện đại hôm nay, nhất là với công nghệ. Trần Anh Thái vẫn sống với tiềm thức của một người giữ lấy cái xưa cũ trong hồn mình, chỉ viết những gì mình thấy thích nhất, không chạy theo xu hướng, không ồn ào, ít tham gia vào những cuộc tranh luận, xưng tụng chốn văn trường. Nói chung ông không quan tâm nhiều đến thế giới bên ngoài. “Công chúng của thơ”-khái niệm ấy cũng chẳng nghĩa lý gì với ông lắm, bởi ông xác quyết chỉ “nô lệ cho chính mình” khi ngồi trước trang giấy trắng. Nghĩa là ông tận cùng với khoái cảm của việc viết, tận cùng với những hạnh phúc hay khổ đau mà con chữ mang lại, còn nó đến với người đọc ra sao, mức độ nào hẵng cứ để “hậu xét”. Trần Anh Thái rất dị ứng kiểu viết theo trào lưu. Với ông văn chương không có “mốt”, nó chỉ có một hướng thôi, là hướng về những giá trị nhân văn, vĩnh cửu, nơi con người có thể neo tìm ý nghĩa của đời sống. Xiêm y rối rắm, thời trang kỳ dị, cốt chỉ để gây sốc, gây tò mò người đọc mà không ít tác giả đang “đua trend” hiện nay, với ông là điều cực kỳ vớ vẩn. Thái độ có vẻ như “bảo thủ, ích kỷ” chỉ biết mình đó, ngẫm đến cùng lại rất cần với một người cầm bút. Khi đắm chìm trong thế giới của sáng tạo, họ phải cực đoan và hình như, những tác phẩm nghệ thuật độc đáo thường sinh ra từ sự “cực đoan” như vậy của người viết. Tệ nhất trên đời là những kẻ vừa viết vừa nhìn xung quanh xem thiên hạ cần gì để chiều chuộng. Họ có thể thức thời, có thể được công chúng quan tâm nhất thời nhưng rất khó để đi lâu dài trên con đường vốn đầy cô đơn, kham khổ, hiểm nguy, thậm chí vô tăm tích của nghề viết. Dù cực đoan như vậy, nhưng điểm đáng yêu của Trần Anh Thái lại ở chỗ, ông luôn giữ thái độ quý mến, ủng hộ, tin tưởng ở người cầm bút trẻ, nhất là những người tài năng chịu khó tìm tòi nhưng vẫn tôn trọng các giá trị truyền thống.
Với Trần Anh Thái, thơ là “trên đường”-giống như tên một trường ca của ông. Ông không biết con đường đó dẫn mình về đâu, nhưng ông biết chắc chắn mình là một lữ khách miệt mài trên con đường đó. Phải đi, như một kẻ khổ sai, một kẻ bị giời hành. Bởi vì dừng lại thì hoang mang ập đến. Con người thi sĩ trong ông vừa đi vừa trầm tư: “Không ai đốt lửa trước con đường, chỉ có niềm hy vọng cháy lên. Sức mạnh bàn chân ở nơi thẳm sâu miền trắc ẩn, ngân nga nơi dấu chân tổ tiên, nơi những câu chuyện buồn không dứt. Đi! Dừng lại là đắm chìm, là hoang mang cay đắng, là tiếng vọng xa xăm lạnh buốt cõi người. Không có bờ sóng vỗ vào đâu?”. Tâm thế trên đường ấy mang đầy tính triết lý của một người đã ít nhiều thiền định, hiểu được sự vô định của đời sống trong trùng điệp không gian, thời gian. Là tình nguyện gánh vác sứ mệnh thi ca, tìm dưới đáy sâu bản thể mình chút ánh sáng soi lại thế gian vốn ngày càng bị tàn phá, hoang lạnh bởi lòng tham, cái ác. Trần Anh Thái là kiểu thi sĩ còn giữ được sự trong trẻo, ngây thơ trong tâm hồn, trước hỗn mang thời cuộc. Ông có thể sẵn sàng to tiếng với bạn bè trong cuộc nhậu, đôi khi cáu kỉnh, khó chịu vì một câu chuyện không ưng ý, nhưng trước thơ ca, ông tình nguyện là một tín đồ với tất cả niềm tin nguyên sơ dâng tặng. Xét đến cùng, con đường của thơ là con đường của cái đẹp. Chỉ người có đức tin mới chấp định miệt mài con đường ấy, bất tận đắm đuối tìm kiếm cái đẹp của cuộc đời.
BÌNH NGUYÊN TRANG